Vượt khó, xuất khẩu thủy sản mang về 9,2 tỷ USD
Theo thống kê từ số liệu của Tổng cục Hải quan, 11 tháng năm 2023, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,923 triệu tấn, trị giá 8,230 tỷ USD, giảm 8,72% về lượng và giảm 19,06% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu các nhóm hàng thủy sản chủ lực đều giảm so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 11 tháng năm 2023, tôm là mặt hàng thủy sản xuất khẩu giảm mạnh nhất, giảm 14,52% về lượng và giảm 23,04% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022, đạt 352,3 nghìn tấn, trị giá 3,09 tỷ USD.
Cá tra, cá basa là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất về lượng và lớn thứ 2 về trị giá trong 11 tháng năm 2023, đạt 732,5 nghìn tấn, trị giá 1,68 tỷ USD, giảm 9,63% về lượng và giảm 26,97% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu cá tra, basa lớn nhất của Việt Nam, đạt 225,2 nghìn tấn, trị giá 495,1 triệu USD, giảm 10,98% về lượng và giảm 21,54% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Các thị trường xuất khẩu cá tra, basa lớn tiếp theo gồm Hoa Kỳ, EU, ASEAN, Brazin, Mexico. Đáng chú ý, tháng 11/2023 là tháng thứ 2 liên tiếp xuất khẩu cá tra, basa tăng so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sang nhiều thị trường tăng mạnh về lượng như: Trung Quốc, EU, ASEAN, Brazin, Mexicoô, Anh, Canada....
Xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam trong 11 tháng năm 2023 đạt 153,5 nghìn tấn, trị giá 779,3 triệu USD, giảm 9,67% về lượng và giảm 17,78% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Trong 11 tháng năm 2023, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang Hoa Kỳ giảm, trong khi xuất khẩu sang EU, ASEAN, Israel, Nga, Mexico, Hàn Quốc... tăng trởng khả quan.
Ước tính, tháng 12/2023, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 750 triệu USD, giảm 5,1% so với tháng trước và giảm 0,3% so với tháng 12/2022.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu thủy sản cả năm 2023 ước đạt 9,2 tỷ USD, đạt 92% so kế hoạch (10 tỷ USD). Trong đó, tập trung vào các nhóm hàng chính như: Xuất khẩu tôm khoảng 3,45 tỷ USD; cá tra khoảng 1,9 tỷ USD; nhuyễn thể khoảng 0,8 tỷ USD; cá ngừ khoảng 0,9 tỷ USD.
Năm 2024, ngành thủy sản đặt mục tiêu thận trọng, với tổng sản lượng thủy sản đạt 9,22 triệu tấn, tương đương thực hiện năm 2023; kim ngạch đạt 9,5 tỷ USD, tăng nhẹ 3% so với 2023.
Dự báo, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong nửa đầu năm 2024 sẽ chỉ phục hồi nhẹ so với mức nền thấp của cùng kỳ năm 2023 do nhu cầu thị trường chưa chắc chắn. Kinh tế thế giới vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, lạm phát giảm nhưng vẫn chưa về mức mục tiêu của các nước, lãi suất cao... vẫn là những yếu tố ảnh hưởng đến sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Do đó, người tiêu dùng sẽ chưa thực sự thoải mái trong quyết định chi tiêu, nhu cầu tiêu dùng thủy sản toàn cầu khó tăng mạnh.
Tuy nhiên, với những tín hiệu từ cuối năm 2023, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang một số thị trường như Hoa Kỳ, EU, Hàn Quốc... có khả năng phục hồi trở lại trong các tháng đầu năm 2024. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng và doanh nghiệp tiếp tục nỗ lực mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủy sản.
Kỳ vọng từ thị trường thế giới
Theo Rabobank, năm 2023, nguồn cung tôm toàn cầu tăng đột biến, trong khi nhu cầu giảm do lạm phát cao, làm mất cân bằng cung - cầu trên thị trường. Rabobank dự báo nhu cầu tiêu thụ tôm tại các thị trường sẽ dần phục hồi trong năm 2024. Theo đó, triển vọng kinh tế tăng trưởng vào năm 2024 có thể thúc đẩy nhu cầu và giá tôm phục hồi nhẹ. Tuy nhiên, nhu cầu tôm của Trung Quốc giảm trong nửa cuối năm 2023 và điều này có thể sẽ tiếp tục kéo dài đến năm 2024. Tình trạng này có thể thúc đẩy các nhà xuất khẩu tôm Ecuado chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường khác thay cho thị trường Trung Quốc.
Tại thị trường Nhật Bản, Theo Bộ Thủy sản Nhật Bản, xuất khẩu thuỷ sản của nước này trong tháng 10/2023 đạt 25 tỷ yên, tương đương 170 triệu USD, giảm 28% so với năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu thủy sản của Nhật Bản đến Trung Quốc giảm hơn 80%. Trong khi đó, xuất khẩu thủy sản của Nhật Bản sang Hoa Kỳ tăng 18% so với cùng kỳ năm 2022, với sản phẩm dẫn đầu là sò điệp. Bộ Thủy sản Nhật Bản có kế hoạch mời các doanh nghiệp nhập khẩu từ các nước như Canada và Singapore đến thăm các nhà máy ở Nhật Bản trong tháng 12/2023 để mở rộng thị trường xuất khẩu thủy sản.
Tại thị trường Trung Quốc, sản lượng mực của Trung Quốc năm 2023 ước đạt 757.000 tấn. Trong khi đó, nhập khẩu mực ống của Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm 2023 tăng lên 350.000 tấn, so với 334.000 tấn cùng kỳ năm 2022. Tiêu thụ mực nội địa của Trung Quốc giảm và đang gây khó khăn cho các nhà kinh doanh vì tồn kho ngày càng tăng. Do đó, triển vọng thị trường mực ống Trung Quốc trong thời gian tới không khả quan.
Theo số liệu thống kê của ITC cho thấy, nhu cầu nhập khẩu mặt hàng thủy sản của một số thị trường lớn như Hoa Kỳ và Hàn Quốc bắt đầu có tín hiệu phục hồi, trong khi nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc, Nhật Bản vẫn giảm mạnh.
Nhập khẩu thủy sản của 5 thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới năm 2022 – 2023
(ĐVT: tỷ USD)
Nguồn: ITC, Cơ quan Hải quan Trung Quốc, Cơ quan Hải quan Hàn Quốc
Năm 2023, EU là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Theo thống kê của ITC, trong 8 tháng đầu năm 2023, nhập khẩu thủy sản của EU từ thị trường ngoài khối đạt 23,04 tỷ USD, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, với mức giảm mạnh, Việt Nam xuống vị trí là thị trường cung cấp thủy sản lớn thứ 8 cho EU trong 8 tháng đầu năm 2023, sau Na Uy, Ecuado, Maroc, Anh, Trung Quốc, Iceland và Ấn Độ, đạt 652 triệu USD, giảm 31,1% so với cùng kỳ năm 2022, mức giảm mạnh nhất trong 10 thị trường cung cấp thủy sản lớn nhất cho EU. Thị phần thủy sản Việt Nam trong tổng nhập khẩu từ các thị trường ngoài khối của EU giảm từ 4% trong 8 tháng đầu năm 2022 xuống 2,8% trong 8 tháng đầu năm 2023.
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ 2 thế giới, đạt 21,75 tỷ USD trong 10 tháng năm 2023, giảm 16,3% so với cùng kỳ năm 2022. Trong các tháng gần đây, tốc độ giảm trị giá nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ chậm lại đáng kể, chỉ ở mức 5,5 - 5,6% trong tháng 9 và 10/2023.
Việt Nam là thị trường cung cấp thủy sản lớn thứ 6 cho Hoa Kỳ, sau Canada, Chile, Ấn Độ, Indonesia, Ecuado. Đáng chú ý, tháng 10/2023, Hoa Kỳ tăng mạnh nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam, tăng 138% về lượng và tăng 24,76% về trị giá so với tháng 10/2022, đạt 46,9 nghìn tấn, trị giá 188,13 triệu USD. Tính chung 10 tháng năm 2023, nhập khẩu thủy sản của Hoa Kỳ từ Việt Nam đạt 162,4 nghìn tấn, trị giá 1,36 tỷ USD, giảm 0,64% về lượng và giảm 29,48% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 9,96% về lượng và 6,26% về trị giá trong tổng nhậập khẩu của Hoa Kỳ.
Ngoài một số thị trường lớn và truyền thống, mới đây, Thương vụ Việt Nam tại An-giêri đã phối hợp với hệ thống siêu thị Carrefour tại An-giê-ri tổ chức hoạt động giới thiệu và quảng bá phi lê cá tra, basa tại đại siêu thị Carrefour thuộc Trung tâm thương mại City Center ở Thủ đô Algeria. Mặc dù có bờ biển dài hơn 1.000 km2 và bắt đầu nuôi cá biển, nhưng Algeria mỗi năm vẫn phải nhập khẩu khoảng 30.000 tấn thủy hải sản các loại, chủ yếu là cá phi lê, với trị giá khoảng 100 triệu USD/năm.
Cá tra, basa phi lê đông lạnh của Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường này với giá bán tại các cửa hàng, chợ và siêu thị dao động từ 7,5-13,8 USD/kg. Các khách hàng địa phương sau khi dùng thử các sản phẩm Việt Nam đều có cảm nhận tốt và đánh giá cao hương vị cũng như chất lượng sản phẩm.
VASEP nhận định 10 xu hướng thị trường và dự báo xuất khẩu thủy sản năm 2024
Thứ nhất, lạm phát ở các nước lớn đã được kiềm chế, kinh tế thế giới đã thoát đáy, nhưng phục hồi chậm, tác động đến nhu cầu tiêu thụ thủy sản.
Thứ hai, xung đột Nga - Ukrain, giao tranh ở Trung Đông và các vấn đề địa chính trị khác trên thế giới chắc chắn làm xáo trộn thương mại toàn cầu trong đó có thủy sản. Hệ lụy sẽ làm chi phí vận tải tăng, các giá sản phẩm đầu vào cho nuôi trồng, chế biến thủy sản tăng. Cũng có thể gây ra cơn lốc lạm phát mới ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ thủy sản trong năm 2024.
Thứ ba, tôm Việt Nam sẽ tiếp tục cạnh tranh với Ecuador và Ấn Độ về giá và nguồn cung, tình trạng dư cung có thể vẫn tiếp diễn tới nửa đầu năm (sản lượng tôm thế giới năm 2024 sẽ tăng 4,8% lên 5,9 triệu tấn).
Ecuador và Ấn Độ đang tăng thị phần cả ở Mỹ, Trung Quốc, EU và Nhật Bản, đồng thời tăng xuất khẩu tôm chế biến dù tỷ trọng còn khiêm tốn.
Thứ tư, tồn kho cá tra tại các thị trường Mỹ, Trung Quốc, EU không còn là vấn đề. Giá xuất khẩu sẽ tăng trở lại ở các thị trường. Ngoài sản phẩm phile đông lạnh, xu hướng nhập khẩu cá tra giá trị gia tăng và các sản phẩm phụ (bong bóng cá, chả cá tra) tiếp tục tăng.
Thứ năm, thẻ vàng IUU tiếp tục là thách thức, nếu không tháo gỡ được trong năm 2024 sẽ khiến xuất khẩu sang EU đình trệ vì thủ tục xác nhận, chứng nhận thủy sản khai thác còn bất cập vì các yếu tố nguồn lực, nhân lực và cơ sở hạ tầng không đáp ứng. Những ngành hàng như cá ngừ, mực, bạch tuộc và cá biển bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Thứ sáu, về tiêu thụ, nhu cầu thị trường tập trung vào các phân khúc hàng giá rẻ hơn như cá hộp, cá nguyên liệu để chế biến cá hộp, cá khô, tép khô.
Thứ bảy, chu kỳ giảm giá nhiều loài thủy sản có thể vẫn tiếp diễn tới hết nửa đầu năm 2024.
Thứ tám, chi phí thức ăn tiếp tục là thách thức lớn cho cả ngành nuôi tôm và cá tra
Thứ chín, do nhu cầu hồi phục chậm và xu hướng tăng nhập khẩu tôm giá rẻ từ Ecuador. Do đó, xuất khẩu tôm sang Mỹ sẽ khó khăn hơn nếu bị áp thuế chống trợ cấp (CVD).
Thứ mười, nhu cầu thị trường Trung Quốc phục hồi mạnh hơn, nhưng trả giá thấp, khó cạnh tranh.