VINANET- Theo số liệu thống kê, trong 7 tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam đạt hơn 8,27 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước.
Mỹ, EU và Nhật Bản hiện vẫn là 3 thị trường xuất khẩu lớn của ngành dệt may Việt Nam với tỷ trọng xuất khẩu dành cho thị trường Mỹ chiếm 50%; EU là 15%; Nhật Bản là 12%; Hàn Quốc 9%, còn lại dành cho các thị trường khác.
Dẫn đầu kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may vẫn là thị trường Hoa Kỳ, với trị giá hơn 4,21 tỷ USD, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm ngoái; đứng thứ hai là thị trường Nhật Bản, trị giá hơn 1,05 tỷ USD, tăng trên 23% và sang Hàn Quốc đạt 452 triệu USD (tăng trên 19%). Tuy nhiên, xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường EU đạt 1,3 tỉ đô la Mỹ, giảm gần 4%.
Số liệu xuất khẩu dệt may Việt Nam tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2012
Thị trường
|
ĐVT
|
Tháng 7/2012
|
7 Tháng/2012
|
Tổng
|
USD
|
1.438.091.923
|
8.270.790.197
|
Hoa Kỳ
|
USD
|
729.804.890
|
4.215.606.051
|
Nhật Bản
|
USD
|
176.390.189
|
1.058190947
|
Hàn Quốc
|
USD
|
70.994.943
|
452.428.574
|
Anh
|
USD
|
49.839.243
|
247959160
|
Tây Ban Nha
|
USD
|
46541753
|
224607236
|
Canađa
|
USD
|
32759470
|
178461314
|
Hà Lan
|
USD
|
24338553
|
142288629
|
Trung Quốc
|
USD
|
22274376
|
117645232
|
Đài Loan
|
USD
|
15961409
|
108933081
|
Pháp
|
USD
|
18258168
|
98037108
|
Bỉ
|
USD
|
13841122
|
86917093
|
Italia
|
USD
|
18429871
|
84254763
|
Nga
|
USD
|
14934433
|
74998807
|
Hồng Kông
|
USD
|
10010964
|
54036462
|
Mêhicô
|
USD
|
12676918
|
52105498
|
Campuchia
|
USD
|
7820676
|
51052989
|
Indonêsia
|
USD
|
4122108
|
43056352
|
Thổ Nhĩ Kỳ
|
USD
|
5484363
|
39855372
|
Arập xêút
|
USD
|
5924404
|
36491333
|
Tiểu VQ ArậpTN
|
USD
|
4973822
|
31326431
|
Thái Lan
|
USD
|
3804298
|
29461994
|
Malaysia
|
USD
|
3277724
|
24286960
|
Braxin
|
USD
|
4433561
|
21597550
|
Panama
|
USD
|
2320748
|
20476209
|
Séc
|
USD
|
3326958
|
19219328
|
Singapore
|
USD
|
2840765
|
18537850
|
Áo
|
USD
|
3208185
|
16616990
|
Philippin
|
USD
|
2562793
|
15455245
|
Chilê
|
USD
|
1759754
|
14128510
|
Ucraina
|
USD
|
1571827
|
13395289
|
Ba Lan
|
USD
|
3666902
|
12542135
|
Achentina
|
USD
|
658770
|
11424591
|
Ấn Độ
|
USD
|
1821040
|
11368540
|
NamPhi
|
USD
|
1415974
|
9643732
|
Ănggôla
|
USD
|
1168755
|
8774002
|
Ixraen
|
USD
|
1530193
|
8260755
|
Thụy Sỹ
|
USD
|
2631397
|
7863362
|
Slôvakia
|
USD
|
2910843
|
7804216
|
Nauy
|
USD
|
1291527
|
7308412
|
Hy Lạp
|
USD
|
259564
|
5286243
|
Hungary
|
USD
|
564514
|
5061220
|
Ai cập
|
USD
|
1251591
|
4916034
|
New zilân
|
USD
|
507784
|
4057094
|
Gana
|
USD
|
1695450
|
3651631
|
Lào
|
USD
|
370212
|
3186683
|
Mianma
|
USD
|
376878
|
2674480
|
Bờ Biển Ngà
|
USD
|
|
1747568
|
Bà Đặng Phương Dung – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký VITAS cho biết, nửa đầu năm 2012, ngành dệt may toàn cầu gặp khó khăn chung về thị trường, nhất là việc xuất khẩu sản phẩm vào thị trường Mỹ và EU.
Mặc dù đặt nhiều kỳ vọng xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường EU, nhưng yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng và kiểu dáng sản phẩm dệt may tại thị trường này có phần khắt khe hơn ở Mỹ, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật khiến hàng dệt may sang EU không tăng như mong đợi.
Khó từ nhiều phía
Theo bà Đặng Phương Dung, ngành dệt may sụt giảm về sản lượng xuất khẩu cũng như bị thu hẹp về thị trường như hiện nay là do dệt may đang quá bị phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu, máy móc và các thiết bị nhập khẩu. Cùng với đó là trình độ quản lý, năng suất lao động còn thấp cũng như thiếu sự kết nối trực tiếp với thị trường và vấn đề chi phí sản xuất quá cao.
Đại diện VITAS cũng cho rằng, giá cả nguyên liệu nhập khẩu không ổn định, giá xăng dầu trong nước biến động dẫn đến cước vận chuyển tăng nhanh. Thứ nữa, mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam bị nhiều sức ép cạnh tranh gay gắt về giá cũng như rào cản thuế quan so với các nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh…
Nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm sản lượng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam là do khủng hoảng tài chính toàn cầu chưa biết đến hồi kết. Đây chính là căn nguyên cơ bản cũng như sự thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, ngành dệt may nói riêng.
Tín hiệu khả quan trong những tháng cuối năm 2012 và những năm tiếp theo cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng dệt may đó là tới đây, Việt Nam sẽ tham gia đàm phán, ký kết hàng loạt các hiệp định tự do thương mại song phương và đa phương. Khi đó, dệt may Việt Nam sẽ đạt được nhiều mục tiêu giảm thuế nhập khẩu trong khuôn khổ các nước tham gia hiệp định.
Bà Đặng Phương Dung cho hay, hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP) bao gồm 9 nước thành viên tham gia đang trong quá trình đàm phán. Theo tính toán của Hiệp hội, bình quân thuế suất nhập khẩu đối với mặt hàng dệt may hiện nay đang ở mức từ 26 – 28%, sau khi tham gia TPP, mức thuế bình quân sẽ chỉ còn ở mức 16 – 18% tùy theo mặt hàng. Cá biệt, có mặt hàng được giảm thuế suất về 0% ngay sau khi hiệp định có hiệu lực.