Chính phủ Trung Quốc ngày 23/1 đã ban hành thêm lệnh cấm tạm thời các hoạt động giao thông công cộng tại thành phố Hoàng Cương, nơi cách ổ dịch đầu tiên là Vũ Hán khoảng 70 km, nhằm ngăn chặn nguy cơ lây lan khi số người nhiễm tính đến hết ngày 23/1 đã là 830 người với 25 ca tử vong.
Theo lệnh cấm, mọi dịch vụ xe buýt và đường sắt công cộng sẽ phải ngừng hoạt động và toàn bộ các địa điểm giải trí trong nhà như rạp chiếu phim, cafe Internet phải đóng cửa từ cuối ngày 23/1. Mọi người dân được khuyến cáo chỉ di chuyển ra khỏi thành phố khi thực sự cần thiết.
Khả năng dịch viêm phổi do nhiễm virus corona mới (2019-nCoV) trở thành đại dịch đã gợi nhắc về sự bùng phát Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) hồi năm 2002-2003. Khi đó, dịch cũng bắt đầu từ Trung Quốc và đã dẫn đến sụt giảm mạnh mẽ trong hoạt động du lịch.
Với các trường hợp nhiễm chủng mới của virus Corona được phát hiện ở những nước cách xa Trung Quốc như Mỹ, thị trường đang bị tác động bởi nỗi lo sợ rằng virus có thể lan rộng hơn khi hàng triệu người Trung Quốc chuẩn bị đi du lịch vào dịp Tết Nguyên đán bắt đầu từ cuối tuần này.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm gần 2% do lo ngại rằng sự lây lan của dịch viêm phổi do virus Corona tại Trung Quốc có thể làm giảm nhu cầu nhiên liệu. Dầu Brent Biển Bắc giảm 1,17 USD, tương đương 1,9%, xuống 62,04 USD/thùng vào lúc đóng cửa, sau khi đã có lúc chạm mức thấp thấp nhất kể từ đầu tháng 12/2019 là 61,25 USD/thùng trong cùng phiên; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) lùi 1,15 USD (khoảng 2%) xuống 55,59 USD/thùng, trước đó cùng phiên có lúc cũng rơi xuống 54,77 USD/thùng - mức thấp nhất kể từ tháng 11/2019.
Trong một ghi chú gửi tới khách hàng, JPM Commodities Research thuộc ngân hàng đầu tư J.P. Morgan dự báo giá dầu Brent trung bình ở mức 67 USD/thùng trong quý I/2020 và 64,50 USD/thùng trong cả năm 2020.
Trên thị trường kim loại quý, trái với giá dầu, vàng đi lên khi giới đầu tư lo ngại kinh tế toàn cầu suy yếu nên lại hướng tới các tài sản an toàn như vàng.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên mức 1.564,13 USD/ounce; vàng giao tháng 2/2020 tăng 0,6% lên 1.565,40 USD/ounce khi khép phiên. 
Nỗi sợ hãi về sự lây lan của dịch bệnh đã khiến chứng khoán Trung Quốc ghi nhận mức sụt giảm lớn nhất trong hơn 8 tháng, từ đó đè nặng lên thị trường chứng khoán toàn cầu.
Tuy nhiên, ông Bob Haberkorn, chiến lược gia thị trường cấp cao của công ty môi giới đầu tư RJO Futures, cho biết thị trường chứng khoán toàn cầu đang suy yếu nên vàng đang thu hút nhà đầu tư hơn. Tuy nhiên, sự thiếu vắng của bất kỳ rủi ro địa chính trị nào trong ngắn hạn sẽ kiềm chế đà tăng của giá vàng.
Cuộc họp cùng ngày của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã không ảnh hưởng mấy tới giá vàng trong phiên 23/1. ECB đã quyết định giữ nguyên lãi suất tại cuộc họp chính sách mới nhất và sẽ tiến hành một cuộc “đánh giá chiến lược" về mục tiêu và công cụ lạm phát của họ.
Giờ đây, sự chú ý của thị trường sẽ chuyển sang cuộc họp đầu tiên trong năm 2020 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ dự kiến diễn ra vào ngày 28-29/1.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,1% xuống 17,8 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 0,7% xuống 1.004,83 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất trong vòng hơn 6 tuần khi số người tử vong do virus corona tiếp tục tăng lên, gây lo ngại dịch bệnh này lan rộng sẽ ảnh hưởng tới kinh tế Trung Quốc. Các kim loại cơ bản khác cũng giảm giá. Chứng khoán Trung Quốc giảm điểm nhiều nhất kể từ tháng 5/2019 và đồng nhân dân tệ cũng trượt giá khi Trung Quốc đưa 2 thành phố vào danh sách phong tỏa do virus corona. Các nhà đầu tư kim loại đang bán tháo hàng ra.
Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 2% xuống 5.987 USD/tấn, từ đầu tuần đến nay mất khoảng 4,5%.
Các kim loại cơ bản khác cũng giảm giá: Chì giảm 1% xuống 1.967 USD/tấn, nhôm giảm 0,9% xuống 1.795 USD/tấn, kẽm giảm 2,2% xuống 2.343 USD/tấn, nickel giảm 2,1% xuống 13.360 USD/tấn và thiếc giảm 2,3% xuống 17.030 USD/tấn. Sản lượng quặng nickel của Indonesia năm 2019 đã tăng gấp đôi lên 52,8 triệu tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 1,4% (1,6 US cent) lên 1,126 USD/lb, hồi phục từ mức thấp nhất 2 tháng của phiên liền trước; robusta giao cùng kỳ hạn tăng 2,2%, tương đương 30 USD, lên 1.367 USD/tấn.
Các thương gia hy vọng thị trường sẽ tiếp tục hồi phục trong ngắn hạn sau khi sụt giảm từ cuối năm ngoái – khiến hợp đồng đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 mất hơn 30 US cent (từ mức đỉnh cao đạt được hôm 17/12/2019).
Giá đường giảm từ mức cao nhất 2 năm do giá dầu giảm. Đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 0,6% (9 US cent) xuống 14,57 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 2 năm ở phiên trước đó (14,9 US cent). Đường trắng giao cùng kỳ hạn cũng giảm 0,8% (3,2 USD) xuống 403,8 USD/tấn, từ mức 411,5 USD/tấn của phiên trước đó (cao nhất kể từ tháng 6/2017).
Một nhà máy luyện đường hàng đầu Malaysia thông báo sẽ tăng nhập khẩu đường thô từ Ấn Độ. Đây là một trong những nỗ lực của Malaysia nhằm thúc đẩy xuất khẩu dầu cọ sang thị trường Ấn Độ (trao đổi hàng hóa).
Giá cao su trên sàn Tokyo tiếp tục giảm do lo sợ virus corona gây ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế Trung Quốc. Kết thúc phiên vừa qua, cao su kỳ hạn tháng 6/2020 trên sàn TOCOM giảm 0,4 JPY xuống 191 JPY (1,74 USD)/kg. Đây là phiên giảm giá thứ 5 liên tiếp.
Trên sàn Thượng Hải, giá cũng đi xuống, với hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 290 CNY xuống 12.085 CNY (1.750 USD)/tấn; loại cao su TSR20 giảm 350 CNY xuống 10.050 CNY/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

55,59

-1,15

-2,03%

Dầu Brent

USD/thùng

62,03

-1,18

-1,87%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

39.390,00

-140,00

-0,35%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,93

+0,02

+1,10%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

156,02

-1,94

-1,23%

Dầu đốt

US cent/gallon

179,16

-0,86

-0,48%

Dầu khí

USD/tấn

551,00

-1,25

-0,23%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.860,00

-440,00

-0,78%

Vàng New York

USD/ounce

1.565,40

+8,70

+0,56%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.494,00

+15,00

+0,27%

Bạc New York

USD/ounce

17,83

+0,00

+0,01%

Bạc TOCOM

JPY/g

63,00

+0,30

+0,48%

Bạch kim

USD/ounce

1.006,10

+1,09

+0,11%

Palađi

USD/ounce

2.464,15

+0,18

+0,01%

Đồng New York

US cent/lb

272,60

-3,90

-1,41%

Đồng LME

USD/tấn

6.106,00

-54,00

-0,88%

Nhôm LME

USD/tấn

1.811,00

-13,50

-0,74%

Kẽm LME

USD/tấn

2.396,00

-58,50

-2,38%

Thiếc LME

USD/tấn

17.425,00

-150,00

-0,85%

Ngô

US cent/bushel

393,75

+5,00

+1,29%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

580,50

+2,75

+0,48%

Lúa mạch

US cent/bushel

316,50

+3,25

+1,04%

Gạo thô

USD/cwt

13,63

+0,19

+1,41%

Đậu tương

US cent/bushel

909,50

-4,25

-0,47%

Khô đậu tương

USD/tấn

298,90

+1,00

+0,34%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,48

-0,54

-1,64%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

473,10

-4,80

-1,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.771,00

-32,00

-1,14%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

112,60

+1,60

+1,44%

Đường thô

US cent/lb

14,57

-0,09

-0,61%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

94,95

-1,35

-1,40%

Bông

US cent/lb

70,03

-1,10

-1,55%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

426,00

+0,80

+0,19%

Cao su TOCOM

JPY/kg

191,20

+0,20

+0,10%

Ethanol CME

USD/gallon

1,35

+0,01

+0,82%