Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do thị trường kỳ vọng các chương trình kích thích kinh tế mới của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ giúp bù đắp những tổn hại do dịch Covid-19 gây ra.
Kết thúc phiên, tại thị trường New York, giá dầu ngọt (WTI) nhẹ giao tháng 5/2020 tăng 73 US cent (3,2%), lên 23,36 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giao cùng kỳ hạn tăng 5 US cent, lên 27,03 USD/thùng.
Giá dầu đi xuống trong gần suốt phiên, song bất ngờ đảo ngược tình thế vào cuối phiên do những kỳ vọng rằng các biện pháp kích thích của chính phủ các nước và các ngân hàng trung ương, trong đó có Fed, sẽ giúp nền kinh tế thế giới hạn chế tổn thương sau giai đoạn khó khăn hiện tại.
Ngày 23/3, Fed đã đưa ra thêm một loạt biện pháp nhằm hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp, đồng thời tuyên bố sẽ mua một lượng không giới hạn trái phiếu Chính phủ Mỹ và các chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp để hỗ trợ hoạt động của các thị trường tài chính.
Trong suốt 4 tuần vừa qua, giá cả hai loại dầu chủ chốt đều giảm, trông đó WTI mất 29% vào tuần trước, mức giảm mạnh nhất kể từ cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991. Dầu thế giới đã mất hơn một nửa giá trị kể từ khi Saudi Arabia và Nga không đạt được đồng thuận về vấn đề cắt giảm sản lượng. Các ngân hàng, giới phân tích và các nhà sản xuất đều đưa ra dự báo kém lạc quan về nhu cầu dầu mỏ trong năm nay, với ước tính sẽ giảm 2,8 triệu thùng/ngày, mức giảm mạnh nhất trong gần 40 năm qua.
Trong khi đó, giá xăng kỳ hạn giao sau tại Mỹ, nước tiêu thụ nhiên liệu hàng đầu thế giới, giảm mạnh 32% trong phiên vừa qua, xuống thấp kỷ lục khoảng 41,18 USD/gallon. Đây là mức giảm mạnh nhất tính theo ngày của giá xăng. Thông thường, Mỹ tiêu thụ hơn 9 triệu thùng xăng/ngày cho việc vận hành các động cơ, tương đương gần một nửa lượng tiêu thụ dầu mỏ hàng ngày của nước này. Tuy nhiên, dịch Covid-19 bùng phát khiến người dân hạn chế đi lại và nhiều doanh nghiệp đóng cửa đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhu cầu xăng dầu của Mỹ.
Giới phân tích cho rằng đà sụt giảm giá xăng còn chịu tác động bởi việc Thượng viện Mỹ một lần nữa không thông qua gói cứu trợ khẩn cấp trị giá 1.300 tỷ USD do lãnh đạo phe đa số tại Thượng viện Mitch McConnell đề xuất. Đây là dự luật hỗ trợ thứ 3 và là dự luật có số tiền lớn nhất của Chính phủ Mỹ nhằm đối phó với dịch Covid -19. Dự luật đầu tiên trị giá 8,3 tỷ USD tập trung vào các quan cơ y tế và những người phải ứng phó đầu tiên với dịch, trong khi dự luật thứ 2 trị giá 104 tỷ USD được Tổng thống Trump ký ngày 18/3 nhằm hỗ trợ người lao động nghỉ phép khẩn cấp, xét nghiệm virus SARS-CoV-2 miễn phí và bảo hiểm thất nghiệp mở rộng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 4% sau khi Fed đưa ra các biện pháp mới mạnh mẽ nhằm chống lại tác động kinh tế của dịch COVID-19, qua đó giúp thúc đẩy tâm lý của giới đầu tư.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 4,1% lên 1.559,55 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tháng 4 tăng 5,5% và đóng phiên ở mức 1.567,60 USD/ounce. Các chỉ số chính trên thị trường chứng khoán Mỹ tăng hơn 3%, trong khi đồng USD giảm hơn 1% so với các đồng tiền chủ chốt sau tuyên bố của Fed.
Tai Wong, chuyên gia cấp cao của công ty BMO, cho biết thị trường chứng khoán và giá vàng đã phản ứng ngay lập tức sau quyết định của Fed. Tuy nhiên, chuyên gia này cho rằng vấn đề là liệu tâm lý lạc quan này có kéo dài hay không.
Giá vàng đã giảm gần 2% trong tháng này, khi sự giảm điểm trên thị trường chứng khoán đã khiến giới đầu tư bán vàng để giữ tiền mặt.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 4,9% lên 13,19 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 3,8% và được giao dịch ở mức 634,32 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm giảm xuống thấp nhất kể từ tháng 6/2016, trong khi giá đồng Thượng Hải giảm xuống mức thấp nhất trong gần 11 năm do lo sợ rằng việc phong tỏa chống lại sự lây lan của virus corona sẽ khiến kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Đây được xem là phiên “đen tối” nhất của sàn LME kể từ Thế chiến thứ 2.
Sàn giao dịch London (LME – đã thành lập cách đây143 năm) tạm thời đóng cửa việc giao dịch hô giá công khai trong ngày 23/3, lần đầu tiên kể từ chiến tranh thế giới thứ 2 để hạn chế sự lây lan của virus corona. Việc chuyển đổi sang giao dịch điện tử hoàn toàn trên sàn LME diễn ra suôn sẻ nhưng khối lượng giao dịch ít.
Giá nhôm LME đã giảm khoảng 2,8% xuống 1.538,5 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 6/2016. Đến cuối phiên giá nhôm chỉ giảm 1,3% xuống 1.562 USD/tấn. Nhôm đã giảm 16% kể từ khi đạt mức đỉnh 5 tháng tại 1.835 USD/tấn trong đầu tháng 1. Nhôm giảm giá một phần do lo lắng về dư thừa lớn sau khi số liệu hôm 20/3 cho thấy sản lượng nhôm toàn cầu tăng 3,8% trong tháng 2/2020 so với cùng tháng năm trước, mặc dù sản lượng giảm 6,2% so với tháng liền trước.
Giá đồng LME giảm 3,7% xuống 4.630 USD/tấn trong khi đồng Thượng Hải giảm xuống mức thấp nhất trong gần 11 năm. Giá đồng tại Thượng Hải đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 6/2009 tại 35.300 CNY/tấn trong đầu phiên giao dịch, sau đó phục hồi nhẹ, đóng cửa giảm 3,1% tại 37.200 CNY/tấn.
Các nhà phân tích cho biết nhu cầu đồng giảm vì phần lớn ngành sản xuất của thế giới bị phá vỡ do sự bùng phát của virus corona, dự kiến đồng sẽ dư thừa lên tới 1 triệu tấn trong năm nay.
Giá quặng sắt Đại Liên giảm 6% dẫn tới đợt bán tháo mạnh mẽ khác của kim loại đen này ở Trung Quốc, khi các biện pháp chặt chẽ hơn để ngăn chặn đại dịch Covid-19 xóa đi triển vọng phục hồi kinh tế toàn cầu.
Sự lây lan nhanh chóng của virus corona đã gây ra làn sóng phong tỏa cộng đồng và dừng các hoạt động kinh doanh trên khắp thế giới, làm giảm triển vọng phục hồi kinh tế tại Trung Quốc, quốc gia sản xuất và xuất khẩu thép hàng đầu thế giới.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa ở mức 629 CNY (88,41 USD)/tấn, thấp nhất kể từ ngày 9/3.
Giá thép Trung Quốc cũng giảm bất chấp những dấu hiệu nhu cầu trong nước tăng, với dự trữ của sản phẩm thép giảm 4,8% xuống 37,05 triệu tấn tính tới ngày 19/3, theo Mysteel, đánh dấu dự trữ giảm lần đầu tiên kể từ ngày 19/12/2019.
Theo số liệu của SteelHome, quặng sắt nhập khẩu của Trung Quốc dự trữ tại các cảng ở mức 123,75 triệu tấn tính tới ngày 20/3/2020, thấp nhất kể từ giữa tháng 8/2019.
Thép thanh dùng trong xây dựng trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 3%, trong khi thép cuộn cán nóng giảm 3,7% và thép không gỉ giảm 1,4%.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 5 đóng cửa tăng 0,13 US cent hay 1,2% lên 11,04 US cent/lb. Giá đường đã giảm xuống mức thấp nhất 1,5 năm tại 10,44 US cent trong tuần trước.
Các đại lý cho biết áp lực bán ra của các quỹ đã dịu đi và thị trường có thể củng cố trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, phạm vi phục hồi có vẻ hạn chế với những lo ngại rằng sự suy yếu trong thị trường ethanol có thể thúc đẩy các nhà máy Brazil sử dụng mía để sản xuất thêm đường hơn là nhiên liệu sinh học này.
Tuy nhiên giá đường giảm gần đây cũng có thể giảm khối lượng xuất khẩu của Ấn Độ. Ấn Độ có thể xuất khẩu 4,5 triệu tấn đường trong niên vụ 2019/20, giảm gần 1/5 so với ước tính ban đầu, khi giá cả toàn cầu giảm bởi dịch Covid-19 khiến doanh số bán ở nước ngoài không có lợi cho các nhà máy.
Đường trắng kỳ hạn tháng 5 đóng cửa giảm 3,8 USD hay 1,1% xuống 340,6 USD/tấn.
Giá cà phê arabia kỳ hạn tháng 5 chốt phiên tăng 1,55 US cent lên 1,2125 USD/lb sau khi tăng lên mức cao nhất 2,5 tháng tại 1,2490 USD/lb trước đó trong phiên này. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 không đổi tại 1.244 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường này tiếp tục tăng mạnh gần đây bởi lo ngại chuỗi cung ứng liên quan tới sự lây lan của virus corona.
Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 4 đóng cửa giảm 5,1 JPY xuống 148,9 JPY (1,4 USD)/kg, sau khi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 11/7/2016 tại 147,3 JPY trong đầu phiên giao dịch.
Giám đốc điều hành của Volkswagen cho biết cuộc khủng hoảng virus corona có thể buộc công ty này đóng cửa các nhà máy lâu hơn dự kiến ban dầu.
Giá cao su tại Thượng Hải giao tháng 9 đã giảm 445 CNY xuống 9.630 CNY (1.354 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 24/3

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

23,99

+0,63

+2,70%

Dầu Brent

USD/thùng

27,63

+0,60

+2,22%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

25.670,00

+1.160,00

+4,73%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,60

0,00

-0,19%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

44,00

+2,82

+6,85%

Dầu đốt

US cent/gallon

104,12

+2,51

+2,47%

Dầu khí

USD/tấn

298,50

+12,50

+4,37%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

38.710,00

+960,00

+2,54%

Vàng New York

USD/ounce

1.576,80

+4,10

+0,26%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.559,00

+299,00

+5,68%

Bạc New York

USD/ounce

13,66

+0,39

+2,97%

Bạc TOCOM

JPY/g

48,90

+4,50

+10,14%

Bạch kim

USD/ounce

661,92

+17,50

+2,72%

Palađi

USD/ounce

661,92

+17,50

+2,72%

Đồng New York

US cent/lb

211,20

+1,15

+0,55%

Đồng LME

USD/tấn

4.630,00

-180,00

-3,74%

Nhôm LME

USD/tấn

1.561,00

-21,00

-1,33%

Kẽm LME

USD/tấn

1.818,50

-29,50

-1,60%

Thiếc LME

USD/tấn

13.250,00

-700,00

-5,02%

Ngô

US cent/bushel

342,25

-1,25

-0,36%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

556,50

-6,00

-1,07%

Lúa mạch

US cent/bushel

267,50

-1,00

-0,37%

Gạo thô

USD/cwt

13,22

-0,01

-0,11%

Đậu tương

US cent/bushel

881,75

-2,25

-0,25%

Khô đậu tương

USD/tấn

334,90

+1,30

+0,39%

Dầu đậu tương

US cent/lb

26,05

-0,09

-0,34%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

467,10

-0,40

-0,09%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.257,00

+27,00

+1,21%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

121,25

+1,55

+1,29%

Đường thô

US cent/lb

11,04

+0,13

+1,19%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

110,25

+4,70

+4,45%

Bông

US cent/lb

52,15

-1,53

-2,85%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

320,20

-2,10

-0,65%

Cao su TOCOM

JPY/kg

150,50

+1,60

+1,07%

Ethanol CME

USD/gallon

0,91

-0,10

-9,86%

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg