Trên thị trường năng lượng, giá dầu đảo chiều tăng do nhà đầu tư bớt lo ngại về khả năng nhu cầu dầu thế giới giảm do virus corona.
Kết thúc phiên này, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 3/2020 tăng 1,14 USD lên 50,75 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 4/2020 tăng 1,32 USD lên 55,28 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ vừa cho biết dự trữ dầu thô thương mại của nước này đã tăng 3,4 triệu thùng lên 435 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 31/1. Tuy nhiên, con số này lại giảm khoảng 2% so với mức trung bình của 5 năm.
Bên cạnh đó, thông tin về việc Tổ chức Các nước xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh đang cân nhắc khả năng tiếp tục giảm sản lượng nhằm đối phó với nguy cơ sụt giảm nhu cầu trước tác động của dịch bệnh do nCoV cũng góp phần hỗ trợ giá dầu.
Tại cuộc họp ngày 4/2, OPEC và các đồng minh, dẫn đầu là Nga, được gọi là OPEC+, đã đánh giá những ảnh hưởng của nhu cầu tiêu thụ và tình hình tăng trưởng kinh tế toàn cầu tới thị trường dầu mỏ, giữa bối cảnh dịch viêm đường hô hấp cấp do nCoV tiếp tục diễn biến phức tạp tại Trung Quốc.
Giá than cốc và than luyện cốc tại Trung Quốc tăng do gia tăng lo ngại nguồn cung nguyên liệu sản xuất thép bởi virus corona bùng phát gây gián đoạn hoạt động kinh doanh. Trên sàn Đại Liên, giá than cốc tăng 0,5% lên 1.775 CNY/tấn, sau khi tăng 0,3% trong phiên trước đó. Giá than luyện cốc tăng 0,8% lên 1.198,5 CNY/tấn, đóng cửa phiên trước đó tăng 0,6%.
Trên thị trường kim loại quý, vàng cũng tăng giá trở lại do các nhà đầu tư tiếp tục coi kim loại quý này là kênh đầu tư tốt nhờ môi trường lãi suất thấp giữa bối cảnh có nhiều yếu tố không chắc chắn trên toàn cầu.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.558,12 USD/ounce; vàng giao tháng 4/2020 tăng 0,5% lên mức 1.562,80 USD/ounce.
Vàng đã tăng giá trong phiên này bất chấp sự nhảy vọt của thị trường chứng khoán Mỹ, vốn được hỗ trợ bởi số liệu việc làm khả quan cùng các báo cáo về tiến bộ trong phát triển phương pháp điều trị nhằm chống lại dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (2019-nCoV).
Chiến lược gia thị trường cấp cao tại công ty môi giới đầu tư RJO Futures, Bob Haberkorn, nhận định giá vàng nhìn chung vẫn đang có xu hướng đi lên. Các nhà đầu tư đang muốn sở hữu vàng vào thời điểm hiện nay, chủ yếu do chính sách của các ngân hàng trung ương, bao gồm chính sách lãi suất thấp hơn và nới lỏng chính sách tiền tệ.
Các nhà đầu tư hiện đang chờ đợi báo cáo việc làm phi nông nghiệp của Mỹ dự kiến công bố vào ngày 7/2 để đánh giá sức mạnh của thị trường lao động. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã giữ nguyên lãi suất trong cuộc họp mới đây nhờ nền kinh tế vẫn đang tăng trưởng ổn định và thị trường việc làm "khỏe mạnh".
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,3% lên 17,62 USD/ounce; bạch kim cũng tiến 1.9% lên 981,64 USD/ounce; riêng palađi giảm 0,2% xuống 2.428,75 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất gần 2 tuần trong đầu phiên giao dịch.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất trong hơn 1 tuần sau khi ngân hàng trung ương Trung Quốc – nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới – bơm tiền để kích thích nền kinh tế.
Trên sàn London, đồng kỳ hạn giao sua 3 tháng kết thúc phiên tăng 1,9% lên 5.722 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 5.769 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 27/1/2020. Giá đồng tăng cùng với thị trường tài chính do các nhà đầu tư kỳ vọng động thái của Trung Quốc sẽ bù đắp bất kỳ sự suy giảm kinh tế nào từ tác động virus corona bùng phát.
Tuy nhiên, 14 phiên giảm liên tiếp trước đó do lo ngại virus corona sẽ kiềm chế hoạt động kinh tế và nhu cầu kim loại đã khiến giá đồng mất 13% giá trị.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm phiên thứ 3 liên tiếp sau kỳ nghỉ lễ, với mức giảm tổng cộng 1,5%. Đồng thời, giá quặng sắt 62% Fe giao ngay ở mức 81,8 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 14/11/2019. Tuy nhiên, bất chấp áp lực giảm giá quặng sắt do lo ngại về tác động kinh tế của virus corona, song Fitch Solutions đã nâng dự báo giá quặng sắt năm 2020 lên mức trung bình 85 USD/tấn từ mức 80 USD/tấn dự báo trước đó.
Trong khi đó, trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,4% và giá thép cuộn cán nóng tăng 0,5%.
Trên thị trường nông sản, giá đường duy trì vững sau khi đạt mức cao nhất 2 năm trong phiên trước đó do sản lượng giảm, trong khi giá cà phê Arabica chạm mức thấp nhất 3 tháng.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn ICE giảm 0,01 US cent tương đương 0,1% xuống 14,71 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 2 năm (15,13 US cent/lb) trong phiên trước đó. Giá đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 0,4 USD tương đương 0,1% lên 414,1 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 2,5 năm (420 USD/tấn) trong phiên trước đó.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn ICE giảm 0,25 US cent tương đương 0,25% xuống 97,9 US cent/lb, trong phiên có lúc chạm mức thấp nhất 3 tháng (97,75 US cent/lb). Giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 7 USD tương đương 0,5% xuống 1.283 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm mức thấp nhất 3 tháng (1.280 USD/tấn). Xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 12/2019 tăng 0,3% so với tháng 12/2018 lên 10,3 triệu bao (60 kg), Tổ chức Cà phê Quốc tế cho biết.
Giá đậu tương tại Mỹ tăng do thị trường chứng khoán toàn cầu và giá dầu đậu tương tăng mạnh, làm lu mờ lo ngại về nhu cầu xuất khẩu đậu tương Mỹ. Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 1/2 US cent lên 8,8 USD/bushel. Giá lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 4-3/4 US cent lên 5,62 USD/bushel, trong khi giá ngô kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 1-1/2 US cent xuống 3,8-3/4 USD/bushel.
Giá cao su tại Tokyo tăng khi giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải tăng do tâm lý của các nhà đầu tư được cải thiện. Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn TOCOM tăng 0,3 JPY lên 175 JPY (1,6 USD)/kg.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Thượng Hải tăng 335 CNY lên 11.215 CNY (1.602 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 6/2 (giờ VN)

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

51,52

+0,77

+1,52%

Dầu Brent

USD/thùng

55,6

+0,58

+1,05%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

37.200,00

+1.130,00

+3,13%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,88

+0,02

+0,81%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

150,71

+2,08

+1,40%

Dầu đốt

US cent/gallon

166,15

+1,61

+0,98%

Dầu khí

USD/tấn

506,75

+0,50

+0,10%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

52.610,00

+1.140,00

+2,21%

Vàng New York

USD/ounce

1.558,90

-3,90

-0,25%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.493,00

+9,00

+0,16%

Bạc New York

USD/ounce

17,63

+0,03

+0,16%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,30

+0,20

+0,32%

Bạch kim

USD/ounce

984,60

+0,78

+0,08%

Palađi

USD/ounce

2.449,25

+15,89

+0,65%

Đồng New York

US cent/lb

259,80

+2,35

+0,91%

Đồng LME

USD/tấn

5.722,00

+104,00

+1,85%

Nhôm LME

USD/tấn

1.717,00

+31,00

+1,84%

Kẽm LME

USD/tấn

2.213,00

+46,50

+2,15%

Thiếc LME

USD/tấn

16.570,00

+245,00

+1,50%

Ngô

US cent/bushel

381,00

+0,25

+0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

565,00

+3,00

+0,53%

Lúa mạch

US cent/bushel

305,00

+0,50

+0,16%

Gạo thô

USD/cwt

13,50

-0,04

-0,30%

Đậu tương

US cent/bushel

883,75

+3,75

+0,43%

Khô đậu tương

USD/tấn

288,00

+0,60

+0,21%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,58

+0,26

+0,83%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

462,30

+0,60

+0,13%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.815,00

+34,00

+1,22%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

97,75

-0,40

-0,41%

Đường thô

US cent/lb

14,73

+0,02

+0,14%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

93,75

+0,25

+0,27%

Bông

US cent/lb

67,51

+0,16

+0,24%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

428,30

+15,60

+3,78%

Cao su TOCOM

JPY/kg

177,90

+2,90

+1,66%

Ethanol CME

USD/gallon

1,35

-0,01

-1,10%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg