Trên thị trường năng lượng, giá dầu diễn biến trái chiều trong bối cảnh dự trữ dầu của Mỹ gia tăng và căng thẳng tại khu vực Trung Đông leo thang.
Kết thúc phiên, dầu ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 11 giảm 0,04 USD xuống 52,59 USD/thùng, trong dầu Brent kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,08 USD lên 58,32 USD/thùng.
Theo báo cáo công bố ngày 9/10 của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, dự trữ dầu thô của nước này trong tuần kết thúc ngày 4/10 đã tăng 2,9 triệu thùng so với tuần trước đó, nhiều gấp đôi so với mức dự đoán của các nhà phân tích. Với 425,6 triệu thùng, dự trữ dầu thô của Mỹ đang ở mức trung bình của 5 năm. Đồng thời sản lượng dầu thô Mỹ tăng lên mức cao kỷ lục 12,6 triệu thùng/ngày trong tuần vừa qua.
Các nhà đầu tư vẫn tiếp tục theo dõi sát sao diễn biến mới nhất về căng thẳng quân sự tại Trung Đông, nhân tố đã làm dấy lên những lo ngại về sản lượng dầu thô từ khu vực này. Ngày 9/10, Thổ Nhĩ Kỳ đã chính thức tiến hành chiến dịch quân sự nhằm vào các tay súng người Kurd và tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng ở phía Bắc Syria. Trong khi đó, Mỹ - vốn ủng hộ Các lực lượng Dân chủ Syria do người Kurd đứng đầu - đã rút binh sĩ khỏi khu vực là mục tiêu tấn công của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, điều được xem là một sự từ bỏ đối với các lực lượng người Kurd là đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến chống IS.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng giữa lúc giới đầu tư chờ đợi biên bản cuộc họp tháng Chín của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với hy vọng ngân hàng trung ương Mỹ sẽ tiếp tục giảm lãi suất. Tuy nhiên, những tín hiệu kém lạc quan từ đàm phán thương mại Mỹ-Trung đã thúc đẩy nhà đầu tư hướng tới các tài sản rủi ro và hạn chế đà đi lên của giá vàng.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.506,27 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,5% lên 1.511,70 USD/ounce.
Giám đốc mảng giao dịch kim loại quý của High Ridge Futures, ông David Meger, nhận định việc Fed bơm một số lượng lớn tiền mặt vào thị trường tài chính Mỹ đã hỗ trợ cho giá vàng. Trước đó, Chủ tịch Fed Jerome Powell đã cho thấy khả năng cơ quan này sẽ cắt giảm lãi suất để chống lại rủi ro cho nền kinh tế toàn cầu. Fed sẽ thông báo các biện pháp bổ sung nguồn dự trữ trong thời gian tới.
Trong khi đó, các cuộc đàm phán cấp cao giữa Phó Thủ tướng Trung Quốc Lưu Hạc (Liu He) với Đại diện Thương mại Mỹ Robert Lighthizer và Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin, sẽ diễn ra trong hai ngày 10-11/10 (theo giờ Mỹ) để tìm hướng giải quyết các xung đột thương mại hiện nay giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Tại châu Âu, nhiều dấu hiệu cho thấy cuộc đàm phán giữa Anh và Liên minh châu Âu (EU) về vấn đề Brexit đã không thể tạo bước đột phá trước thời điểm Anh rời EU vào ngày 31/10.
Bên cạnh đó, những căng thẳng địa chính trị tại Trung Đông, với việc Thổ Nhĩ Kỳ đưa quân vào lãnh thổ Syria để chống lại lực lượng người Kurd, cũng thúc đẩy nhà đầu tư tìm đến vàng như một kênh đầu tư an toàn hơn.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,1% lên 17,73 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,4% lên 893,56 USD/ounce, trong khi giá palađi tăng 0,1% lên 1,678,10 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng trước khi diễn ra các cuộc đàm phán cấp cao giữa Mỹ và Trung Quốc. Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,1% lên 5.684 USD/tấn. Dự trữ đồng tại Thượng Hải ở mức 290.000 tấn, giảm so với 600.000 tấn trong tháng 3/2019 và chạm mức thấp nhất kể từ cuối năm 2011.
Giá thép tại Trung Quốc giảm phiên thứ 2 liên tiếp do thị trường bất động sản nước này tăng chậm lại và tồn trữ thép tăng. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 1,1% xuống 3.390 CNY (474,81 USD)/tấn, trong phiên có lúc giảm 0,4% xuống 3.413 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giao cùng kỳ hạn giảm 0,2% xuống 3.428 CNY/tấn; thép không gỉ kỳ hạn tháng 2/2020 tăng 0,2% lên 15.675 CNY/tấn. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên giảm 2,9% xuống 639 CNY/tấn, kết thúc chuỗi tăng 5 phiên liên tiếp.
Doanh số bán bất động sản tại Bắc Kinh trong tuần nghỉ lễ 1-7/10/2019 giảm, trong đó doanh số bán nhà mới chạm mức thấp nhất kể từ năm 2014. Tồn trữ trữ thép tại Trung Quốc tính đến ngày 7/10/2019 ở mức 11,4 triệu tấn, tăng 594.100 tấn so với tuần kết thúc vào ngày 26/9/2019, theo số liệu của công ty tư vấn Mysteel.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô giảm do hoạt động bán ra mạnh giữa bối cảnh dư cung, trong khi giá cà phê Arabia giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 tháng.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn ICE giảm 0,05 US cent xuống 12,41 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn London tăng 1,1 USD tương đương 0,3% lên 342,7 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn ICE giảm 0,25 US cent tương đương 0,3% xuống 95,45 US cent/lb, trong phiên có lúc chạm 95,05 US cent/lb, thấp nhất kể từ ngày 6/9/2019; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn London giảm 1 USD tương đương 0,1% xuống 1.258 USD/tấn, gần mức thấp nhất 9 năm (1.250 USD/tấn) đạt được trong ngày 7/10/2019.
Giá đậu tương tại Mỹ tăng lên mức cao nhất gần 3 tháng do lạc quan về việc Trung Quốc sẽ tăng cường mua đậu tương Mỹ và lo ngại cơn bão tại khu vực Trung Tây nước Mỹ có thể đe dọa năng suất cây trồng. Trong khi đó, giá ngô giảm, còn giá lúa mì biến động nhẹ sau khi đạt mức cao nhất gần 2 tháng.
Kết thúc phiên, đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn Chicago tăng 3-1/4 US cent lên 9,23-3/4 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 9,31-1/2 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 15/7/2019; ngô kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 1-1/2 US cent xuống 3,94-1/4 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 3,97-1/4 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 12/8/2019; lúa mì giao cùng kỳ hạn không thay đổi ở mức 5-1/4 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 5,04-1/2 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 9/8/2019.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng phiên thứ 4 liên tiếp lên cao nhất hơn 2 tuần do đồng ringgit yếu và giá dầu đậu tương trên sàn Đại Liên tăng. Dầu cọ kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn Bursa (Malaysia) tăng 1,1% lên 2.199 ringgit (524,07 USD)/tấn, trong đầu phiên có lúc tăng 1,4% lên 2.206 ringgit/tấn, cao nhất kể từ ngày 23/9/2019. Đồng ringgit giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần so với đồng USD, khiến dầu cọ mua bằng đồng ringgit rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Giá cao su tại Tokyo giảm do căng thẳng giữa Mỹ -Trung leo thang. Trên sàn TOCOM, giá cao su kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 1 JPY (0,0093 USD) xuống 158 JPY/kg; cao su TSR20 kỳ hạn tháng 4/2020 ở mức 148,9 JPY/kg.
Trong khi đó, trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 15 CNY (2,1 USD) lên 10.570 CNY/tấn. Giá cao su TSR20 tăng 70 CNY lên 9.770 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

52,59

-0,04

Dầu Brent

USD/thùng

58,32

+0,08

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.850,00

-30,00

-0,08%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,24

+0,01

+0,22%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

157,79

-0,92

-0,58%

Dầu đốt

US cent/gallon

191,12

-0,81

-0,42%

Dầu khí

USD/tấn

585,00

-6,25

-1,06%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

52.900,00

-20,00

-0,04%

Vàng New York

USD/ounce

1.515,20

+2,40

+0,16%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.205,00

+24,00

+0,46%

Bạc New York

USD/ounce

17,88

+0,07

+0,39%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,50

+0,20

+0,33%

Bạch kim

USD/ounce

891,40

-0,93

-0,10%

Palađi

USD/ounce

1.683,28

+0,63

+0,04%

Đồng New York

US cent/lb

257,25

+0,45

+0,18%

Đồng LME

USD/tấn

5.684,00

+8,50

+0,15%

Nhôm LME

USD/tấn

1.744,00

-7,50

-0,43%

Kẽm LME

USD/tấn

2.291,00

-7,00

-0,30%

Thiếc LME

USD/tấn

16.445,00

+50,00

+0,30%

Ngô

US cent/bushel

393,50

-0,75

-0,19%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

501,00

+0,75

+0,15%

Lúa mạch

US cent/bushel

284,00

-0,50

-0,18%

Gạo thô

USD/cwt

12,02

+0,02

+0,12%

Đậu tương

US cent/bushel

922,00

-1,75

-0,19%

Khô đậu tương

USD/tấn

309,20

-0,50

-0,16%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,72

+0,01

+0,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

462,20

-1,10

-0,24%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.407,00

-41,00

-1,67%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

95,45

-0,25

-0,26%

Đường thô

US cent/lb

12,41

-0,05

-0,40%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

97,75

-4,55

-4,45%

Bông

US cent/lb

62,16

+0,07

+0,11%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

366,30

+4,30

+1,19%

Cao su TOCOM

JPY/kg

158,50

+0,50

+0,32%

Ethanol CME

USD/gallon

1,50

+0,05

+3,74%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg