Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng nhẹ khi tình hình ở Trung Đông gia tăng căng thẳng, trong khi xuất hiện quan ngại về khả năng nhu cầu năng lượng toàn cầu chững lại.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 8/2019 tại thị trường New York (Mỹ) tăng 17 US cent lên 57,83 USD/thùng, trong khi giá dầu thô Brent giao tháng 9/2019 tại London (Vương quốc Anh) tăng 5 US cent lên 64,16 USD/thùng.
Ngày 8/7, Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) xác nhận Iran đã làm giàu urani cao hơn giới hạn như đã nhất trí trong thỏa thuận Kế hoạch Hành động chung toàn diện (JCPOA) được quốc gia Hồi giáo này và Nhóm P5+1 (gồm 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc là Nga, Anh, Trung Quốc, Mỹ, Pháp cùng Đức) ký kết hồi năm 2015. Trước đó cùng ngày, người phát ngôn Tổ chức Năng lượng nguyên tử Iran, ông Behrouz Kamalvandi xác nhận cấp độ làm giàu urani của nước này đã hơn mức 4,5%, vượt xa mức cho phép theo thỏa thuận hạt nhân ký năm 2015 với các cường quốc.
Trước tình hình trên, Pháp, Đức, Vương quốc Anh và Đại diện Cao cấp của Liên minh châu Âu (EU) ngày 9/7 đều tỏ ý “quan ngại sâu sắc” về động thái nói trên của Iran và kêu gọi một ủy ban chung về vấn đề này tổ chức một cuộc họp khẩn cấp.
Các chuyên gia lưu ý rằng giá dầu được hỗ trợ từ những quan ngại của thị trường về căng thẳng địa chính trị “leo thang” tại Trung Đông có thể làm gián đoạn hoạt động sản xuất dầu trong khu vực. Trong khi đó, giới thương nhân tiếp tục lo ngại tình trạng kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại sẽ tác động tới nhu cầu dầu trên toàn cầu. Theo các nhà phân tích tại Commerzbank, những quan ngại mới về tình hình kinh tế và đồng USD vững giá hơn đang tạo ra sức ép đối với giá dầu.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 5 tuần, do dự báo thời tiết nóng hơn và nhu cầu làm mát trong 2 tuần tới cao hơn so với dự báo trước đó.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn New York tăng 2,2 US cent tương đương 0,9% lên 2,425 USD/mBTU, cao nhất kể từ ngày 31/5/2019.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ khi giới đầu tư chờ đợi phiên điều trần về chính sách tiền tệ của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Jerome Powell.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.397,3 USD/ounce, đầu phiên có lúc giá chạm 1.386,11 USD/ounce, thấp nhất kể từ ngày 2/7/2019. Vàng kỳ hạn tháng 8/2019 tăng 0,5 USD, tương đương 0,04%, lên 1.400,50 USD/ounce.
Trong phiên giao dịch trước đó, giá vàng giao tháng 8/2019 giảm nhẹ 0,01%. Điều này cũng cho thấy thị trường đang trong trạng thái “chờ và xem”.
Các nhà đầu tư hiện đang chờ đợi phiên điều trần, diễn ra 6 tháng một lần, trước Ủy ban Tài chính của Hạ viện Mỹ trong 2 ngày 10-11/7 của Chủ tịch Fed Jerome Powell để tìm kiếm thêm những “manh mối” về khả năng cơ quan này tiếp tục cắt giảm lãi suất.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 9/2019 tăng 9,75 US cent, tương đương 0,64%, lên 15,147 USD/ounce. Trong khi đó, giá bạch kim giao tháng 10/2019 giảm 5,3 USD, tương đương 0,65%, xuống còn 815,10 USD/ounce.
Theo David Roche, chủ tịch và chiến lược gia toàn cầu tại Independent Stratergy, trụ sở Anh, giá vàng có thể tiếp tục tăng ngay cả khi vừa lập đỉnh nhiều năm vào tuần trước, theo một chiến lược gia đầu tư toàn cầu. Giá vàng được dự báo “còn tăng tới 2.000 USD/ounce vào cuối năm”. Theo ông, giá vàng có chiều hướng tăng trong bối cảnh kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất và căng thẳng địa chính trị gia tăng – các điều kiện có thể gây áp lực lên thị trường chứng khoán. “Tôi thực sự tin rằng thị trường tài chính sẽ sụp đổ như một lâu đài cát”. Ngoài ra, ông Roche dự báo giá vàng sẽ tiếp tục tăng một phần do căng thẳng thương mại quốc tế tạo thêm tâm lý tiêu cực cho các nhà đầu tư. “Tôi nghĩ xung đột thương mại với Mỹ có tầm ảnh hưởng xa và rộng trên toàn cầu, làm suy yếu kỳ vọng tăng trưởng trên thị trường chứng khoán”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần ngay cả khi các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Trung Quốc được nối lại.
Giá đồng kỳ hạn trên sàn London giảm 1,2% xuống 5.822 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 17/6/2019. Giá đồng chịu áp lực giảm do dự trữ đồng tại London tăng 5.600 tấn lên 260.725 tấn, cao nhất kể từ tháng 6/2018.
Đồng thời, giá kẽm giảm 0,7% xuống 2.362 USD/tấn, thấp nhất kể từ đầu tháng 1/2019 do dự kiến nguồn cung tăng.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng, trong bối cảnh nhu cầu tăng mạnh và mối lo ngại về nguồn cung kéo dài, trong khi giá thép tăng lần đầu tiên trong 6 phiên. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Đại Liên tăng 4,1% lên 880,5 CNY (128 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch giá quặng sắt tăng 6,3% lên 899,5 CNY/tấn, đạt mức cao đỉnh điểm 911,5 CNY/tấn hôm 3/7/2019.
Đồng thời, giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 1% lên 4.042 CNY/tấn. Giá thép cuộn cán nóng tăng 1,1% lên 3.910 CNY/tấn.
S&P điều chỉnh dự báo giá quặng sắt năm 2019 lên 90 USD/tấn so với mức 75 USD/tấn dự báo trước đó, 80 USD/tấn năm 2020 so với 70 USD/tấn và 70 USD/tấn năm 2021 so với 65 USD/tấn dự báo trước đó.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê tăng sau khi giảm mạnh trong phiên trước đó, do các nhà phân tích vẫn đánh giá tác động của sương giá vào cuối tuần trước tại nước sản xuất hàng đầu – Brazil, trong khi giá ca cao rời khỏi mức cao nhất 1 năm.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn ICE tăng 1,05 US cent tương đương 1% lên 1,0745 USD/lb sau khi giảm mạnh hơn 4% trong phiên trước đó. Giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE tăng 10 USD tương đương 0,7% lên 1.436 USD/tấn.
Trong khi đó, giá ca cao kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn New York giảm 55 USD tương đương 2,1% xuống 2.522 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 1 năm (2.589 USD/tấn) trong phiên trước đó. Giá ca cao giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 38 GBP tương đương 2% xuống 1.897 GBP/tấn, rời khỏi mức cao nhất hơn 1 năm (1.939 GBP/tấn) trong phiên trước đó.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn ICE giảm 0,1 US cent tương đương 0,8% xuống 12,35 US cent/lb. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn ICE giảm 2,2 USD tương đương 0,7% xuống 319,3 USD/tấn, trước đó trong phiên giá chạm 318,2 USD/tấn, không xa so với mức thấp nhất năm 2019 (318,1 USD/tấn) trong tháng 5/2019.
Giá ngô và lúa mì giảm sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ lạc quan về dự báo thời tiết tại khu vực Trung Tây Mỹ được cải thiện. Giá ngô kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Chicago giảm 7 US cent xuống 4,32-1/2 USD/bushel.
Giá lúa mì giao cùng kỳ hạn trên sàn Chicago giảm 8-1/4 US cent xuống 5,02-3/4 USD/bushel sau khi giảm xuống dưới 5 USD/bushel – lần đầu tiên – kể từ ngày 10/6/2019.
Trong khi đó, giá đậu tương kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn Chicago tăng 7 US cent lên 8,86 USD/bushel, cao hơn mức trung bình 50 ngày (8,69-1/2 USD/bushel).
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm do giá dầu đậu tương suy giảm và dự kiến sản lượng dầu cọ trong tháng 7/2019 tăng gây áp lực giá. Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Bursa Malaysia giảm 0,2% xuống 1.942 ringgit (468,91 USD)/tấn, phiên giảm thứ 2 liên tiếp.
Giá cao su tại Tokyo giảm theo xu hướng giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải, do các yếu tố cơ bản suy yếu và hợp đồng cao su mới gây áp lực giá. Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn TOCOM giảm 4,7 JPY (0,0432 USD) xuống 176,3 JPY/kg. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn TOCOM giảm 3,4 JPY xuống 150,6 JPY/kg. Đồng thời giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải giảm hơn 4,6% xuống 10.635 CNY (1.545,94 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

57,83

+0,17

 

Dầu Brent

USD/thùng

64,16

+0,05

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

41.470,00

+660,00

+1,62%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,43

+0,00

+0,16%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

193,47

+0,78

+0,40%

Dầu đốt

US cent/gallon

192,34

+1,28

+0,67%

Dầu khí

USD/tấn

583,00

+6,75

+1,17%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

59.380,00

+730,00

+1,24%

Vàng New York

USD/ounce

1.395,10

-5,40

-0,39%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.864,00

+8,00

+0,16%

Bạc New York

USD/ounce

15,09

-0,06

-0,41%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,70

+0,40

+0,76%

Bạch kim

USD/ounce

810,80

-1,32

-0,16%

Palađi

USD/ounce

1.547,91

-1,59

-0,10%

Đồng New York

US cent/lb

263,35

+0,85

+0,32%

Đồng LME

USD/tấn

5.822,00

-70,00

-1,19%

Nhôm LME

USD/tấn

1.821,00

+12,00

+0,66%

Kẽm LME

USD/tấn

2.363,00

-15,00

-0,63%

Thiếc LME

USD/tấn

18.225,00

-270,00

-1,46%

Ngô

US cent/bushel

432,50

-4,75

-1,09%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

498,50

-4,25

-0,85%

Lúa mạch

US cent/bushel

276,00

-3,25

-1,16%

Gạo thô

USD/cwt

11,84

-0,04

-0,38%

Đậu tương

US cent/bushel

900,25

-4,00

-0,44%

Khô đậu tương

USD/tấn

314,30

-1,60

-0,51%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,52

+0,03

+0,11%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

448,70

-0,10

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.522,00

-55,00

-2,13%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

107,45

+1,05

+0,99%

Đường thô

US cent/lb

12,35

-0,10

-0,80%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

102,95

-2,60

-2,46%

Bông

US cent/lb

63,15

-0,13

-0,21%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

368,70

-8,50

-2,25%

Cao su TOCOM

JPY/kg

177,20

+0,90

+0,51%

Ethanol CME

USD/gallon

1,46

-0,02

-1,42%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters