Tại Câu lạc bộ Kinh tế New York ngày 12/11, Tổng thống Mỹ Donald Trump phát biểu rằng các nhà đàm phán Mỹ và Trung Quốc “sắp” đạt thỏa thuận thương mại giai đoạn 1. Tuy nhiên, ông vẫn công kích Trung Quốc là “gian lận” trong thương mại, và khẳng định ông “sẽ chỉ chấp nhận thỏa thuận nếu tốt cho Mỹ, cho người lao động và doanh nghiệp Mỹ”, đồng thời cảnh báo sẽ tăng thuế “rất đáng kể” nếu Trung Quốc không ký thỏa thuận với Mỹ. Cố vấn kinh tế Nhà Trắng Larry Kudlow sau đó cho biết thỏa thuận giai đoạn 1 có thể bao gồm điều chỉnh thuế hiện hành nhưng chưa bên nào nhất trí “cho đến khi toàn bộ thỏa thuận được đưa ra”. Những phát ngôn này của ông Trump đã tác động tới hầu hết các thị trường hàng hóa nguyên liệu.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu chốt phiên vừa qua giảm nhẹ sau phát biểu của ông Trump, dầu Brent giảm 12 US cent xuống 62,06 USD/thùng, mặc dù đầu phiên có lúc tăng khoảng 1%; dầu Tây Texas Mỹ (WTI) giảm 6 US cent xuống 56,8 USD/thùng.
Việc ông Trump không đưa ra thông tin cụ thể về tiến triển đàm phán khiến giới đầu tư không thể tiếp tục lạc quan về việc thỏa thuận giai đoạn 1 sớm được ký kết.
Giá dầu Brent đã tăng 16% kể từ đầu năm 2019 đến nay với sự hỗ trợ từ thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất dầu liên minh, trong đó có Nga. Theo kế hoạch, OPEC sẽ nhóm họp trong hai ngày 5-6/12 tới để quyết định liệu có gia hạn thỏa thuận này hay không.
Về yếu tố cơ bản, tồn trữ dầu thô tại trung tâm giao nhận dầu Cushing của Mỹ giảm khoảng 1,2 triệu thùng trong tuần tính tới 8/11. Tuy nhiên, kết quả thăm dò sơ bộ cho thấy tồn trữ dầu thô trên toàn nước Mỹ đang tăng tuần thứ 3 liên tiếp. Ngân hàng Goldman Sachs (Mỹ) đã hạ dự báo tăng trưởng sản lượng dầu của Mỹ trong năm 2020, sau khi sản lượng “vàng đen” của nước này đã tăng trong những năm gần đây và góp phần hỗ trợ giá dầu.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm khi giới đầu tư chuyển hướng sang những tài sản có tính rủi ro cao.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.453,70 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 5/8; vàng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,2% xuống còn 1.453,70 USD/ounce.
Theo ông Bart Melek, người đứng đầu bộ phận chiến lược hàng hóa của của TD Securities, những yếu tố đang tác động tới thị trường vàng là lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng, khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ giảm và các thị trường chứng khoán đã phục hồi.
Được coi là giải pháp bảo toàn vốn trong các giai đoạn bất ổn kinh tế và chính trị, giá vàng đã tăng khoảng 13% kể từ đầu năm đến nay trước những quan ngại liên quan tới cuộc chiến thương mại của Mỹ-Trung Quốc và các ngân hàng trung ương nới lỏng chính sách tiền tệ.
Về những kim loại quý khác, giá palađi tăng 0,8% lên 1.700,60 USD/ounce, sau khi đã chạm mức thấp nhất trong phiên giao dịch trước đó; bạc giảm 0,7% xuống còn 16,74 USD/ounce, trong khi bạch kim giảm 0,8% xuống còn 868,86 USD/ounce, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 28/8 lúc đầu phiên.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kim loại cơ bản giảm nhưng sắt thép đảo chiều đi lên.
Tại sàn kim loại London (LME), giá đồng giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần trước khi ông Trump có bài diễn văn tại CLB Kinh tế New York. Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng giảm 0,2% xuống 5.869 USD/tấn, là phiên giảm thứ 3 liên tiếp. Thị trường cũng đang chờ đợi thông tin rõ hơn về sản xuất công nghiệp của Trung Quốc và quyết định của ông Trump về thuế đánh vào ô tô và phụ tùng ô tô nhập khẩu từ Liên minh Châu Âu. Liên tiếp giảm từ tháng 8 tới nay, lượng đồng lưu kho ở LME đã giảm 4.850 tấn xuống 229.350 tấn, thấp nhất kể từ 11/6.
Nickel giảm giá phiên thứ 7 liên tiếp, có lúc xuống mức thấp nhất 3 tháng sau khi Indonesia cho phép 9 công ty khôi phục xuất khẩu từ nay đến cuối năm (việc xuất khẩu đã bị tạm dừng từ 28/10). Kết thúc phiên, nickel giảm 0,6% xuống 15.475 USD/tấn, thấp nhất hơn 2 tháng.
Tại Trung Quốc, giá sắt, thép tăng trở lại sau 3 phiên liên tiếp giảm bởi lo ngại thiếu cung khi Chính phủ nước này tăng cường áp dụng các biện pháp chống ô nhiễm môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường nước này đã đặt ra các mục tiêu chống ô nhiễm trong mùa Đông năm nay, trong đó có việc kiểm soát chặt chẽ hơn đối với những nhà máy thép năm ngoái đã vượt quá công suất cho phép.
Phiên giao dịch vừa qua, thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Thượng Hải có lúc tăng 2,5% lên 3.452 CNY (493,56 USD)/tấn, mức cao nhất kể từ cuối tháng 9; kết thúc phiên tăng 2,4% lên 3.449 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng tăng 1,8% lên 3.380 CNY/tấn. Thép không gỉ kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 0,1% xuống 14.385 CNY/tấn.
Quặng sắt trên sàn Đại Liên kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 2,5% lên 607 CNY/tấn sau khi hãng khai mỏ Vale (Brazil) hạ dự báo về triển vọng doanh số bán quặng.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3 năm sau tăng 0,02 US cent lên 12,59 US cent/lb, trong khi đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 5,4 USD tương đương 1% xuống 327,5 USD/tấn.
Dự đoán sản lượng đường ở các khu vực có nơi tăng, có nơi giảm. Bộ Nông nghiệp Pháp nâng dự báo sản lượng củ cải đường năm 2019 lên 37,2 triệu tấn, từ mức 36,9 triệu tấn đưa ra tháng trước. Tuy nhiên, nhìn chung thị trường đường toàn cầu năm 2019/20 dự báo sẽ vẫn thiếu hụt 6-7 triệu tấn.
Giá cacao tăng mạnh trong phiên vừa qua, trong đó giá trên sàn New York lập kỷ lục cao nhất 1,5 năm do một số dấu hiệu cho thấy nguồn cung có thể đang khan hiếm dần.
Cacao kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York tăng 106 USD (4,2%) lên 2.620 USD/tấn vào cuối phiên, sau khi có lúc đạt 2.637 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 5/2018. Tại London, hợp đồng kỳ hạn tháng 12/2019 cũng tăng 76 GBP (4,1%) lên 1.934 GBP/tấn. Hợp đồng kỳ hạn tháng 12 này đã cao hơn 96 GBP so với kỳ hạn tháng 3/2020, cho thấy nguồn cung trong gần hạn có thể sẽ khan hiếm. Hợp đồng kỳ hạn tháng 12 trên sàn New York cũng cao hơn 13 USD/tấn so với kỳ hạn tháng 3 năm sau.
Tuy nhiên, triển vọng sản lượng của Bờ Biển Ngà – nước sản xuất cacao số 1 thế giới - nhìn chung vẫn thuận lợi, lượng cung cấp tới các cảng biển nước này từ 1/10 đến 10/11 đạt 446.000 tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Ghana – nước sản xuất số 2 thế giới – đã bán gần 200.000 tấn cacao của vụ 2020/21.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2019 trên sàn New York giảm 0,55 US cent (0,5%) xuống 1,089 USD/lb, trong khi robusta kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London giảm 4 USD (0,3%) xuống 1.371 USD/tấn.
Brazil đã xuất khẩu 3,1 triệu bao cà phê (1 bao = 60 kg) trong tháng 10/2019, giảm 14% so với cùng tháng năm ngoái, do sản lượng năm nay sụt giảm. Việt Nam đã xuất khẩu 87.497 tấn, tương đương 1,46 triệu bao, trong tháng 10, giảm 5,3% so với tháng 9.
Giá thịt lợn trên sàn Chicago tăng mạnh, thêm 3% trong phiên vừa qua, do hoạt động mua tích cực. Thị trường đang theo sát diễn biến đàm phán thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc.
Lợn sống kỳ hạn tháng 12/2019 giá tăng 1,425 US cent lên 64,725 US cent/lb, kỳ hạn tháng 2/2020 tăng 1,825 US cent lên mức cao nhất 3 tuần là 75,550 US cent/lb. Giá thịt lợn bán buôn ở Mỹ cũng đang tăng lên, thêm 2,19 USD trong phiên vừa qua, lên 88,53 USD/cwt, cao hơn 9,03 USD so với cách đây một tuần.
Nguồn cung trên toàn cầu khan hiếm là lý do chính đẩy giá thịt lợn ở Mỹ tăng vào mùa Thu này, khác với xu hướng thường giảm ở mọi năm.
Giá cao su tăng trên cả 2 thị trường Tokyo và Thượng Hải bởi hy vọng sẽ có thêm những tín hiệu tích cực về chính sách thương mại của Mỹ qua bài phát biểu của Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Kết thúc phiên giao dịch, cao su kỳ hạn tháng 4/2020 trên sàn TOCOM tăng 1,5 JPY (0,0137 USD) lên 180 JPY/kg; kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Thượng Hải tăng 80 CNY (11,44 USD) lên 12.080 CNY/tấn; loại TSR20 của Trung Quốc tăng 155 CNY lên 10.310 CNY/tấn.
Ông Trump ngày 12/11 tham gia một cuộc thảo luận về chính sách thương mại quốc gia tại Câu lạc bộ Kinh tế New York. Giới đầu tư theo dõi sát sao cuộc thảo luận này để có thêm thông tin về cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,78

-0,08

-0,14%

Dầu Brent

USD/thùng

62,00

-0,18

-0,29%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.700,00

-220,00

-0,57%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,62

-0,02

-0,61%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

161,44

+0,45

+0,28%

Dầu đốt

US cent/gallon

189,76

-1,66

-0,87%

Dầu khí

USD/tấn

583,50

0,00

0,00%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.950,00

-90,00

-0,16%

Vàng New York

USD/ounce

1.457,00

-0,10

-0,01%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.098,00

+11,00

+0,22%

Bạc New York

USD/ounce

16,74

-0,07

-0,40%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,00

-0,10

-0,17%

Bạch kim

USD/ounce

868,95

-0,32

-0,04%

Palađi

USD/ounce

1.702,20

0,00

0,00%

Đồng New York

US cent/lb

264,55

-1,85

-0,69%

Đồng LME

USD/tấn

5.878,50

-45,50

-0,77%

Nhôm LME

USD/tấn

1.779,00

-28,50

-1,58%

Kẽm LME

USD/tấn

2.496,50

+14,50

+0,58%

Thiếc LME

USD/tấn

16.575,00

-125,00

-0,75%

Ngô

US cent/bushel

377,75

+4,50

+1,21%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

517,00

+11,25

+2,22%

Lúa mạch

US cent/bushel

307,75

-4,50

-1,44%

Gạo thô

USD/cwt

11,97

-0,05

-0,42%

Đậu tương

US cent/bushel

917,00

0,00

0,00%

Khô đậu tương

USD/tấn

302,30

+1,70

+0,57%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,03

-0,39

-1,24%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

462,10

-1,20

-0,26%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.620,00

+106,00

+4,22%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

108,90

-0,55

-0,50%

Đường thô

US cent/lb

12,59

+0,02

+0,16%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,55

+0,45

+0,46%

Bông

US cent/lb

66,50

+0,42

+0,64%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

384,80

-6,90

-1,76%

Cao su TOCOM

JPY/kg

181,10

+1,10

+0,61%

Ethanol CME

USD/gallon

1,43

-0,01

-0,83%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg