Các quan chức tình báo Mỹ cho rằng Iran đứng đằng sau cuộc tấn công này, làm dấy lên suy đoán nguồn cung toàn cầu và các thị trường thế giới có thể tiếp tục bất ổn. Tổng thống Mỹ Donald Trump mới đây cho biết nước này đã "sẵn sàng hành động" để đáp trả các vụ tấn công nói trên. Điều này đã khiến giá dầu tăng mạnh trong khi các thị trường tài chính lao dốc. Một số chuyên gia nhận định đây là biến động địa chính trị lớn nhất sẽ ảnh hưởng đến thị trường thế giới trong thời gian khá dài. Không chỉ ảnh hưởng tới hàng hóa, giá dầu tăng mạnh còn có thể gây khó cho chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương.
Trên thị trường năng lượng, giá khí tự nhiên của Mỹ tăng lên mức cao nhất trong 5 tháng bởi ảnh hưởng từ cuộc tấn công vào các cơ sở dầu mỏ của Saudi Arabia. Khí tự nhiên giao tháng 10/2019 trên sàn New York lúc đóng cửa tăng 6,7 US cent hay 2,6% lên 2,681 USD/mmBtu, mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 10/4.
Đối với dầu mỏ, vụ tấn công vào các cơ sở lọc dầu ở Saudi Arabia đẩy giá tiếp tục tăng mạnh, thêm gần 15%, trong đó dầu Brent Biển Bắc ghi nhận mức tăng mạnh nhất trong hơn 30 năm và khối lượng giao dịch đạt mức cao kỷ lục.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent Biển Bắc tăng 8,8 USD, hay 14,6%, lên 69,02 USD/thùng, mức tăng mạnh nhất kể từ năm 1988; dầu thô ngọt nhẹ (WTI) tăng 8,05 USD, hay 14,7%, lên 62,90 USD/thùng, mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 12/2008.
Thông tin từ người phát ngôn của sàn giao dịch liên lục địa (Intercontinental Exchange) cho thấy khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh, trong đó lượng dầu Brent được giao dịch trong các hợp đồng kỳ hạn vượt 2 triệu lot (1 lot = 1.000 thùng), mức cao kỷ lục lịch sử.
Cuộc tấn công cuối tuần qua vào các cơ sở lọc dầu của công ty Saudi Aramco khiến sản lượng giảm 5,7 triệu thùng/ngày. Saudi Aramco vẫn chưa đưa ra một lịch trình cụ thể cho việc phục hồi sản lượng hoàn toàn. Thị trường nghi ngờ về khả năng duy trì hoạt động xuất khẩu dầu của quốc gia này và cho rằng sẽ phải mất tới vài tháng.
Ngay sau vụ tấn công nói trên, giá dầu đã tăng vọt khoảng 20% khi khi mở cửa phiên sáng 15/9, trong đó giá dầu Brent ghi nhận mức tăng trong ngày lớn nhất kể từ cuộc khủng hoảng Vùng Vịnh năm 1990-1991. Sau đó, giá dầu đã giảm bớt khi nhiều nước cho biết sẽ dùng kho dự trữ chiến lược để đảm bảo nguồn cung dầu cho thế giới.
Xuất khẩu dầu của Saudi Arabia tuần này vẫn bình thường do vương quốc này sử dụng cả dầu dự trữ.
Các nước nhập khẩu dầu thô chủ chốt từ Saudi Arabia như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ dễ bị tổn thương trước sự gián đoạn nguồn cung. Hàn Quốc thông báo sẽ cân nhắc việc sử dụng kho dự trữ dầu chiến lược nếu hoạt động nhập khẩu dầu gặp khó khăn. Ông Trump cũng đã phê duyệt việc giải phóng dầu từ Kho dự trữ chiến lược của Mỹ, nơi lưu trữ hơn 640 triệu thùng dầu thô.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do lo ngại căng thẳng ở khu vực Trung Đông leo thang khiến giới đầu tư tìm đến các tài sản an toàn. Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 1% lên 1.503,31 USD/ounce, trong khi vàng giao sau tăng 0,8% và khép phiên ở mức 1.511,50 USD/ounce.
Chuyên gia cấp cao của RBC Wealth Management, Ông George Gero, cho rằng tình hình ở Saudi Arabia đang đẩy giá vàng đi lên khi giới đầu tư tìm đến các kênh trú ẩn an toàn vì lo ngại những diễn biến tiêu cực tiếp theo, cả về kinh tế và chính trị. Chuyên gia này nhận định giá vàng sẽ tiếp tục tăng nếu tình hình bất ổn ở Saudi Arabia gia tăng.
Các ngân hàng trung ương trên toàn cầu đang đối mặt với áp lực ngày càng gia tăng trong việc đưa ra các chính sách hỗ trợ về tiền tệ cho nền kinh tế khi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung tiếp tục ảnh hưởng đến thương mại và niềm tin kinh doanh toàn cầu. Thị trường đang chờ đợi các quyết định chính sách từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) trong tuần này.
Trong khi đó, số liệu từ Trung Quốc cho thấy tăng trưởng sản lượng công nghiệp đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 17 năm qua do tác động đang lan rộng từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung.
Tuy nhiên, đồng USD tăng 0,4% đã khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người mua vàng bằng các đồng tiền khác, qua đó hạn chế phần nào hoạt động mua vàng vào.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 2,7% lên 17,9 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 1,2% xuống còn 937,02 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do số liệu kinh tế của Trung Quốc kém lạc quan gây lo ngại về triển vọng nhu cầu, trong khi giá chì và kẽm ở mức cao nhất trong nhiều tháng tháng sau khi hãng Newmont Goldcorp cho biết họ tạm thời dừng hoạt động tại mỏ Peñasquito ở Mexico do một vụ phong tỏa bất hợp pháp.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) lúc đóng cửa giảm 1,8% xuống 5.870 USD/tấn. Trong phiên, giá chì có lúc đạt mức cao nhất 6 tháng là 2.121 USD/tấn, kẽm cũng có lúc cao nhất 1,5 tháng là 2.404,5 USD/tấn, và hai kim loại này kết thúc phiên ở mức lần lượt giảm 0,4% xuống 2.098 USD/tấn và giảm 0,8% xuống 2.365 USD.
Sản xuất công nghiệp của Trung Quốc tháng 8/2019 tăng với tốc độ yếu nhất trong 17,5 năm. Điều này khiến Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường phải lên tiếng cảnh báo rằng rất khó để nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới tăng trưởng 6% trong những tháng tới, sau khi tăng 6,3% trong nửa đầu năm nay.
Giá thép tại Trung Quốc đạt mức cao nhất 1,5 tháng do các nhà đầu tư hy vọng Bắc Kinh sẽ triển khai thêm các biện pháp kích thích sau khi các chỉ số mới nhất cho thấy nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới suy giảm sâu.
Thép cây tăng 1,8% lên 3.564 CNY/tấn, trong phiên có lúc tăng khoảng 2,1% lên 3.575 CNY/tấn, cao nhất kể từ ngày 1/8; thép cuộn cán nóng có lúc tăng khoảng 1,7% lên mức cao nhất 1,5 tháng tại 3.581 CNY/tấn, trước khi kết thúc phiên ở mức tăng 1,2% lên 3.564 CNY/tấn.
Hầu hết nguyên liệu sản xuất thép cũng tăng giá, trong đó quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên có lúc thêm khoảng 3,4% lên 690 CNY/tấn, cao nhất kể từ ngày 7/8 trước khi đóng cửa ở mức tăng 0,5% lên 670,5 CNY/tấn.
Theo nhà phân tích kim loại và khai thác tại công ty chứng khoán Argonaut, Hong Kong sản lượng công nghiệp ảm đạm khiến Bắc Kinh có khả năng đưa tiếp kích thích, hỗ trợ nhu cầu cho nguyên liệu xây dựng và sản xuất.
Việc Trung Quốc thắt chặt hạn chế sản xuất thép trước đợt nghỉ lễ Quốc Khánh (sẽ diễn ra vào tháng tới) và vào cuối đông năm nay cũng tiếp tục hỗ trợ giá.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc tháng 8/2019 phục hồi sau khi giảm trong 2 tháng liên tiếp, do các nhà máy tăng cường sản xuất trước khi cắt giảm sản lượng vào tháng 10 tới.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 tăng 0,3 US cent hay 2,2% lên 11,09 US cent/lb, trước đó có lúc giá đạt mức cao nhất 1,5 tuần là 11,19 US cent. Giá năng lượng tăng có thể thúc đẩy các nhà máy mía Brazil tăng cường sử dụng mía để sản xuất ethanol. Đường trắng kỳ hạn tháng 10/2019 đóng cửa tăng 4,3 USD hay 1,4% lên 321,2 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2019 chốt phiên tăng 1,55 US cent hay 1,5% lên 1,043 USD/lb, cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2019 tăng 10 USD hay 0,8% lên 1.328 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

62,90

+8,05

+14,7%

Dầu Brent

USD/thùng

69,02

+8,8

+14,6%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

40.650,00

+3.810,00

+10,34%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,67

-0,01

-0,37%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

173,22

-2,02

-1,15%

Dầu đốt

US cent/gallon

206,00

-2,38

-1,14%

Dầu khí

USD/tấn

637,25

0,00

0,00%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

59.320,00

+4.260,00

+7,74%

Vàng New York

USD/ounce

1.506,10

+5,40

+0,36%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.198,00

+3,00

+0,06%

Bạc New York

USD/ounce

17,91

-0,12

-0,64%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,90

-0,90

-1,43%

Bạch kim

USD/ounce

936,43

-1,06

-0,11%

Palađi

USD/ounce

1.609,85

+3,66

+0,23%

Đồng New York

US cent/lb

264,00

-0,05

-0,02%

Đồng LME

USD/tấn

5.870,00

-104,50

-1,75%

Nhôm LME

USD/tấn

1.793,00

-17,00

-0,94%

Kẽm LME

USD/tấn

2.365,00

-20,00

-0,84%

Thiếc LME

USD/tấn

17.150,00

+675,00

+4,10%

Ngô

US cent/bushel

373,25

-0,75

-0,20%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

485,75

-3,00

-0,61%

Lúa mạch

US cent/bushel

279,00

-2,00

-0,71%

Gạo thô

USD/cwt

12,22

0,00

0,00%

Đậu tương

US cent/bushel

899,50

-0,50

-0,06%

Khô đậu tương

USD/tấn

298,30

-0,60

-0,20%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,33

+0,05

+0,17%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

452,20

-0,50

-0,11%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.383,00

+46,00

+1,97%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

104,30

+1,55

+1,51%

Đường thô

US cent/lb

12,26

+0,32

+2,68%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

102,05

+0,10

+0,10%

Bông

US cent/lb

62,46

-0,13

-0,21%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

367,60

-10,90

-2,88%

Cao su TOCOM

JPY/kg

172,00

+1,40

+0,82%

Ethanol CME

USD/gallon

1,41

+0,01

+0,64%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg