Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm trở lại sau khi Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman, cho biết nước này đang nỗ lực khôi phục nguồn cung dầu mỏ để trở về mức như trước khi bị tấn công.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent trên sàn London giảm 6,5%, tương đương 4,47 USD, xuống còn 64,55 USD/thùng; trong khi dầu ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York giảm 5,7%, tương đương 3,56 USD, xuống còn 59,34 USD/thùng.
Vụ tấn công vào những cơ sở sản xuất dầu của Saudi Arabia ngày 14/9 vừa qua gây nguy cơ gián đoạn nghiêm trọng nguồn cung dầu trên thị trường thế giới, khiến giá dầu đảo chiều tăng mạnh sau một thời gian giảm bởi lo ngại nhu cầu yếu đi do kinh tế thế giới giảm tốc.
Ngày 16/9/2019, giá dầu đã tăng thêm tới 20%. Ngay sau đó, trong cuộc họp báo ngày 17/9, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman cho biết Saudi Arabia đã khôi phục nguồn cung dầu bằng cách mở kho dự trữ. Theo nhà kinh tế trưởng về thị trường hàng hóa Caroline Bain thuộc hãng Capital Economics, thông tin trên cho thấy giới chuyên gia sẽ không thể sớm điều chỉnh dự báo giá dầu lên mức 60 USD/thùng vào cuối năm 2019.
Trong khi đó, theo số liệu của Viện Dầu mỏ Mỹ công bố ngày 17/9, dự trữ dầu thô của Mỹ đã tăng 592.000 thùng lên 422,5 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 13/9, trái với dự đoán trước đó của các nhà phân tích là dự trữ dầu của Mỹ sẽ giảm 2,5 triệu thùng. Theo kế hoạch, Mỹ sẽ công bố số liệu chính thức về lượng dầu dự trữ của nước này trong ngày 18/9.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ trước những dự đoán về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ đưa ra quyết định cắt giảm lãi suất tại cuộc họp trong hai ngày 17-18/9. Giới đầu tư vẫn chờ đợi quan điểm rõ ràng của cơ quan này về chính sách tiền tệ trong tương lai. Nếu Fed cắt giảm lãi suất sẽ có thể gây sức ép đối với Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) trong việc nới lỏng chính sách tiền tệ.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.505,07 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,1% lên 1.513,40 USD/ounce.
Giá vàng đã tăng gần 19%, tương đương hơn 200 USD, kể từ khi rơi xuống mức thấp nhất kể từ đầu năm 2019 là 1.265,85 USD/ounce hồi đầu tháng 5/2019, do xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới, căng thẳng thương mại Mỹ-Trung và bất ổn ở khu vực Trung Đông gia tăng. Theo chiến lược gia hàng hóa Daniel Ghali của TD Securities, giá vàng hiện vẫn duy trì đà đi lên và xu hướng này sẽ không dễ thay đổi trong ngắn hạn.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,2% lên 18,06 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,6% lên 942,08 USD/ounce, trong khi giá palađi duy trì ở mức 1.605,10 USD/ounce sau khi đạt mức cao kỷ lục 1.626,81 USD/ounce trong phiên giao dịch trước đó.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá hầu hết các kim loại cơ bản chịu sức ép bởi đồng USD mạnh lên - hiện giao dịch gần mức cao nhất trong 2 năm do nguy cơ địa chính trị ở Trung Đông.
Giá đồng giảm trong phiên vừa qua do các nhà đầu tư nghi ngờ khả năng đàm phán Mỹ - Trung trong tuần này có thể dẫn tới một giải pháp nhanh chóng để chấm dứt tranh chấp thương mại kéo dài.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,8% xuống 5.821 USD/tấn; kẽm giảm từ mức cao nhất 6 tuần trong phiên trước xuống 2.349 USD/tấn, giảm 0,7% so với đóng cửa phiên trước.
Các cuộc đàm phán cấp thứ trưởng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới dự kiến bắt đầu tại Washington vào ngày 19/9, mở đường cho các cuộc đàm phán cấp cao trong tháng 10 tới.
Cuộc chiến thương mại kéo dài 14 tháng đã làm gián đoạn các thị trường tài chính, kéo lùi tăng trưởng và nhu cầu kim loại toàn cầu bao gồm cả đồng.
Giá thép tại Trung Quốc giảm trong phiên qua từ mức cao nhất 1,5 tháng đã đạt được trong phiên trước đó, do dự trữ của các sản phẩm thép ở mức cao và lo ngại nhu cầu của thị trường bất động sản có thể giảm sút.
Thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 0,6% xuống 3.533 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng giảm 0,8% xuống 3.529 CNY/tấn. Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên giảm 1,8% xuống 666 CNY/tấn.
Mặc dù tiêu thụ sản phẩm thép đã tăng gần đây, tồn kho vẫn cao hơn so với năm ngoái. Giá nhà của Trung Quốc trong tháng 8 tăng với tốc độ chậm nhất trong gần 1 năm, gây lo ngại rằng thị trường bất động sản vẫn có thể tiếp tục sụt giảm trong bối cảnh nền kinh tế đang chậm lại tại quốc gia này.
Công ty phân tích số liệu thép và quặng sắt Tivlon Technologies cho biết dòng tiền cũng rời khỏi các mặt hàng hợp kim đen do các nhà đầu tư lo lắng về tình trạng bất ổn tại Trung Đông, sau cuộc tấn công vào các cơ sở dầu mỏ của Saudi Arabia.
Ngày 18/9 thứ trưởng Bộ Tài chính Trung Quốc sẽ dẫn đầu phái đoàn đàm phán thương mại đến Mỹ, mở đường cho các cuộc tham vấn kinh tế và thương mại cấp cao diễn ra trong tháng 10/2019 tại Washington.
Trên thị trường nông sản, giá ngô tại Chicago giảm lần đầu tiên trong 4 phiên do tình trạng thời tiết nông vụ tại Mỹ tốt hơn dự kiến và giá dầu giảm. Giá đậu tương cũng giảm do dự báo thời tiết tiếp tục ấm khắp các khu vực Midwest của Mỹ, bất chấp thông báo Mỹ đã xuất khẩu thêm đậu tương thêm sang Trung Quốc.
Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn giao dịch Chicago giảm 6 US cent xuống 3,68 USD/bushell và đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 giảm 6-1/4 US cent xuống 8,93-3/4 USD/bushel.
Đối với mặt hàng cà phê, giá arabica kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 3,95 US cent tương đương 3,8% xuống 1,0035 USD/lb, trong khi robusta kỳ hạn tháng 11/2019 giảm 0,15 US cent tương đương 1,3% xuống 1,313 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 chốt phiên giảm 0,15 US cent hay 1,3% xuống 10,94 US cent/lb. Đường trắng kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 0,4 USD hay 0,12% xuống 320,8 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến thị trường dầu thô (tăng mạnh trong ngày 16/9 nhưng đã giảm khoảng 6% trong ngày 17/9). Nhà phân tích Agritel cho biết mối quan hệ giữa dầu và đường là quan trọng với mẫu số chung giữa 2 thị trường là ethanol. Dầu rẻ hơn có thể khiến giá ethanol giảm và khuyến khích sản xuất đường hơn là nhiên liệu sinh học này.
Tổng sản lượng đường ở khu vực Trung Nam Brazil dự báo đạt 26,6 triệu tấn trong niên vụ 2019/20, không đổi so với 26,5 triệu tấn trong niên vụ trước, theo nhà kinh doanh hàng hóa Bunge.
Giá cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) tăng lên mức cao nhất trong gần 1 tháng do đồn đoán rằng giá dầu tăng sau vụ tấn công vào các cơ sở dầu mỏ của Saudi Arabia sẽ thúc đẩy giá cao su tổng hợp. Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 2/2020 đóng cửa tăng 2,4 JPY hay 1,4% lên 173 JPY (1,6 USD)/kg, sau khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 19/8 tại 173,9 JPY lúc đầu phiên giao dịch. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng hơn 10 CNY lên 12.060 CNY (1.701 USD)/tấn.
Bờ Biển Ngà, quốc gia trồng cao su tự nhiên hàng đầu ở Châu Phi, đã xuất khẩu 435.280 tấn cao su thiên nhiên trong nửa đầu năm nay, tăng hơn 12% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

59,34

-3,56

-5,7%

Dầu Brent

USD/thùng

64,55

-4,47

-6,5%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

39.200,00

-2.110,00

-5,11%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,66

-0,01

-0,26%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

167,42

-0,09

-0,05%

Dầu đốt

US cent/gallon

199,33

+0,37

+0,19%

Dầu khí

USD/tấn

613,75

-6,25

-1,01%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.210,00

-2.120,00

-3,57%

Vàng New York

USD/ounce

1.508,90

+4,50

+0,30%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.210,00

+19,00

+0,37%

Bạc New York

USD/ounce

18,02

-0,12

+0,64%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,30

+0,20

+0,32%

Bạch kim

USD/ounce

939,78

-1,44

-0,15%

Palađi

USD/ounce

1.596,06

-3,37

-0,21%

Đồng New York

US cent/lb

262,70

0,00

0,00%

Đồng LME

USD/tấn

5.821,00

-49,00

-0,83%

Nhôm LME

USD/tấn

1.792,00

-1,00

-0,06%

Kẽm LME

USD/tấn

2.349,00

-16,00

-0,68%

Thiếc LME

USD/tấn

16.850,00

-300,00

-1,75%

Ngô

US cent/bushel

369,00

+1,00

+0,27%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

485,25

+1,00

+0,21%

Lúa mạch

US cent/bushel

280,00

-1,25

-0,44%

Gạo thô

USD/cwt

12,25

-0,03

-0,24%

Đậu tương

US cent/bushel

893,25

-0,50

-0,06%

Khô đậu tương

USD/tấn

297,70

-0,10

-0,03%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,99

0,00

0,00%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

452,50

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.394,00

+11,00

+0,46%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

100,35

-3,95

-3,79%

Đường thô

US cent/lb

12,10

-0,16

-1,31%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

100,85

-1,20

-1,18%

Bông

US cent/lb

61,22

-0,16

-0,26%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

376,30

+8,70

+2,37%

Cao su TOCOM

JPY/kg

170,50

-2,50

-1,45%

Ethanol CME

USD/gallon

1,38

-0,02

-1,43%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg