Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do lo ngại cuộc tấn công vào cơ sở lọc dầu của Saudi Arabia có thể khiến sản lượng dầu của nước này giảm một nửa.
Kết thúc phiên, dầu Brent tăng 80 US cent, tương đương 1,3%, lên 64,4 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ (WTI) tăng 2 US cent lên 58,13 USD/thùng.
“Ngành công nghiệp dầu mỏ Arab Saudi có nguy cơ bị đe dọa và có thể xảy ra gián đoạn nguồn cung ở Vịnh Ba Tư”, ông Gene McGillian thuộc công ty Tradition Energy cho biết.
Arab Saudi thông báo sẽ khôi phục sản lượng bị ảnh hưởng vào cuối tháng 9 này, đưa sản lượng về 12 triệu thùng/ngày vào cuối tháng 11 tới. Tuy nhiên, thị trường lo ngại về phản ứng của Mỹ.
Mỹ cho biết họ đang thành lập một liên minh để ngăn chặn các mối đe dọa từ Iran sau khi cho rằng cuộc tấn công ngày 14/9 là do quốc gia Trung Đông này. Quân đội Mỹ cho biết họ đang thảo luận với Saudi Arabia để giảm thiểu các mối đe dọa từ phía Bắc (ám chỉ Iran).
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giao ngay cũng tăng do đồng USD suy yếu, giữa lúc giới đầu tư tìm kiếm sự rõ ràng về đường hướng lãi suất của Mỹ sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) phát đi tín hiệu cần có nhiều điều kiện hơn nữa để tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.500,55 USD/ounce, trong khi vàng giao sau giảm khoảng 9 USD, hay 0,6%, xuống 1.506,20 USD/ounce.
Fed đã quyết định cắt giảm lãi suất lần thứ hai trong năm nay sau cuộc họp vừa qua nhằm góp phần duy trì đà tăng trưởng kinh tế, nhưng lại phát đi những tín hiệu trái chiều về đường hướng lãi suất trong tương lai.
Bên cạnh đó, vàng cũng được hưởng lợi khi nhu cầu đối với các tài sản an toàn tăng lên sau khi Iran cảnh báo Mỹ không nên phát động một cuộc chiến trực tiếp tại Trung Đông, sau vụ tấn công nhằm vào các cơ sở lọc dầu của Saudi Arabia mà Washington và Riyadh cho là do Tehran thực hiện.
Tuy nhiên, đà tăng của giá vàng trong phiên này phần nào bị hạn chế khi một loạt số liệu kinh tế Mỹ như doanh số bán nhà và số đơn xin hưởng trợ cấp thất nghiệp đều khả quan hơn dự đoán.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,5% lên 17,83 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 1,2% và được giao dịch ở mức 941,45 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm trong phiên qua do lo ngại nhu cầu của Trung Quốc suy yếu. Đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,5% xuống 5.788 USD/tấn.
Nhà phân tích Ben Davis thuộc ngân hàng Liberum cho biết: "Tâm lý vĩ mô có ảnh hưởng lớn tới các kim loại thời điểm này". Sau gần 2 tháng im ắng, các quan chức Mỹ và Trung Quốc đang khôi phục việc đàm phán với nỗ lực sớm giải quyết những bất đồng về chính sách giữa 2 bên và tìm cách thoát khỏi cuộc chiến thương mại. Cuộc đàm phán này nhằm đặt nền tảng cho cuộc đàm phán cấp cao vào đầu tháng 10.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm phiên thứ 4 liên tiếp do lo ngại về nhu cầu trong tương lai. Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên cuối phiên giảm 4,6% xuống 638 CNY (89,82 USD)/tấn, trong phiên có lúc giảm 5,2% xuống 634 CNY.
Các nhà đầu tư thận trọng khi chưa rõ ràng về triển vọng tăng trưởng kinh tế Trung Quốc. Nhu cầu có thể được duy trì ở mức hiện nay nhưng không thể tăng tiếp, nguồn cung quặng sắt hiện khá dồi dào.
Giá thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 3,3% xuống 3.397 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 2,8% xuống 3,428 CNY/tấn, cũng đi xuống ngày thứ 4 liên tiếp.
Các chính quyền địa phương Trung Quốc đã phát hành trái phiếu đặc biệt trị giá 2,0057 nghìn tỷ CNY trong 8 tháng đầu năm nay. Đây là một trong những nỗ lực của nước này nhằm thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng và ổn định nền kinh tế đang nguội lạnh.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/209 chốt phiên giảm 0,01 US cent xuống 10,99 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,9 USD hay 0,3% lên 321,9 USD/tấn. Nguyên nhân do lo ngại nguồn cung trong niên vụ 2019/20 ở Brazil bị thắt chặt bởi các nhà máy chế biến đang tăng cường sử dụng mía để sản xuất ethanol.
Xuất khẩu đường của Brazil niên vụ 2019/20 có thể rơi xuống mức thấp nhất 12 năm, chỉ đạt 18,5 triệu tấn, do giá đường toàn cầu xuống dốc khiến các nhà máy chế biến mía giảm sản xuất đường.
Với mặt hàng cà phê, giá arabica kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 2 US cent hay 2% xuống 98,35 US cent/lb, mức thấp nhất kể từ ngày 10/9. Thị trường cà phê bị áp lực giảm bởi đồng real của Brazil suy yếu. Robusta kỳ hạn tháng 11/2019 cũng giảm 19 USD hay 1,4% xuống 1.300 USD/tấn.
Tại Việt Nam, mức cộng giá cà phê xuất khẩu so với kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn London tuần này không thay đổi so với tuần trước, ở mức 180 - 200 USD/tấn (loại 2 với 5% hạt đen và vỡ). Tuần trước mức cộng là 200 USD/tấn. Người trồng cà phê ở Tây Nguyên chào bán cà phê nhân xô ở mức 35.000 đồng (1,51 USD)/kg, cũng không thay đổi so với tuần trước.
Trong khi đó, tại Indonesia, cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 190 - 200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn London, nới rộng so với 180 USD/tấn một tuần trước.
Giá cao su tại sàn Tokyo (TOCOM) đóng cửa giảm theo xu hướng suy yếu tại Thượng Hải.
Hợp đồng cao su giao tháng 2/2020 trên sàn TOCOM chốt phiên giảm 0,5 JPY xuống 169,8 JPY/kg. Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 125 CNY (17,6 USD) xuống 11.815 CNY/tấn, cao su TSR 29 giảm 70 CNY xuống 10.105 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

58,13

+0,02

Dầu Brent

USD/thùng

64,4

+0,80

+1,3%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

39.440,00

+590,00

+1,52%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,54

+0,00

+0,12%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

170,22

+0,15

+0,09%

Dầu đốt

US cent/gallon

201,67

+1,18

+0,59%

Dầu khí

USD/tấn

620,50

+4,75

+0,77%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.960,00

+610,00

+1,06%

Vàng New York

USD/ounce

1.508,50

+2,30

+0,15%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.197,00

+15,00

+0,29%

Bạc New York

USD/ounce

17,91

+0,03

+0,15%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,90

+0,30

+0,49%

Bạch kim

USD/ounce

941,28

+2,87

+0,31%

Palađi

USD/ounce

1.625,75

+5,87

+0,36%

Đồng New York

US cent/lb

261,25

+0,40

+0,15%

Đồng LME

USD/tấn

5.788,00

-26,00

-0,45%

Nhôm LME

USD/tấn

1.800,00

+14,50

+0,81%

Kẽm LME

USD/tấn

2.312,00

-8,00

-0,34%

Thiếc LME

USD/tấn

16.475,00

-195,00

-1,17%

Ngô

US cent/bushel

372,00

-0,75

-0,20%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

485,75

-2,25

-0,46%

Lúa mạch

US cent/bushel

276,25

-0,50

-0,18%

Gạo thô

USD/cwt

12,34

-0,02

-0,20%

Đậu tương

US cent/bushel

891,50

-1,50

-0,17%

Khô đậu tương

USD/tấn

295,70

-0,40

-0,14%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,86

-0,11

-0,37%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

450,20

-0,70

-0,16%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.468,00

+67,00

+2,79%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

98,35

-2,00

-1,99%

Đường thô

US cent/lb

12,00

-0,07

-0,58%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,65

-0,45

-0,45%

Bông

US cent/lb

60,20

-0,13

-0,22%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

378,30

-3,70

-0,97%

Cao su TOCOM

JPY/kg

166,00

-3,80

-2,24%

Ethanol CME

USD/gallon

1,37

-0,01

-0,87%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg

Nguồn: Vinanet