Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm giữa bối cảnh số liệu kinh tế yếu đi của Mỹ gây lo ngại về triển vọng nhu cầu dầu và tạo sức ép lên giá. Tuy nhiên, báo cáo cho thấy sản lượng “vàng đen” của Mỹ trong quý 3/2019 giảm đã giúp hạn chế đà đi xuống của mặt hàng này.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent Biển Bắc ở mức 58,89 USD/thùng, giảm 36 US cent so với phiên trước, trong khi dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 45 US cent xuống 53,62 USD/thùng.
Theo kết quả khảo sát của Viện Quản lý Nguồn cung (ISM), hoạt động chế tạo của Mỹ tháng 9/2019 đã giảm xuống mức thấp nhất trong 10 năm qua giữa bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung tác động lên xuất khẩu. Chỉ số hoạt động chế tạo của Mỹ giảm xuống 47,8, so với mức 49,1 của tháng trước đó (chỉ số này dưới ngưỡng 50 là dấu hiệu của sự sụt giảm).
Tuy nhiên, đà giảm của giá dầu đã được kiềm chế sau khi Viện Xăng dầu Mỹ (API) công bố số liệu cho thấy dự trữ dầu thô của nước này đã bất ngờ giảm khoảng 5,9 triệu thùng trong tuần trước, so với ước tính của các nhà phân tích là tăng 1,6 triệu thùng. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) dự kiến sẽ công bố báo cáo dự trữ dầu thô hàng tuần vào lúc 14:30 GMT ngày 2/10.
Về thông tin liên quan, kết quả khảo sát của hãng tin Reuters cho thấy, sản lượng dầu của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) tháng 9/2019 đã giảm xuống 28,9 triệu thùng/ngày, thấp hơn 750.000 thùng/ngày so với tháng 8/2019 và là mức thấp nhất tính theo tháng kể từ năm 2011.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng 1% khi các nhà đầu tư đặt cược Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất hơn nữa.

Cuối phiên, vàng giao ngay tăng 0,8% lên 1.483,11 USD/ounce, trước đó trong cùng phiên, có lúc giá chạm mức thấp nhất kể từ ngày 6/8 là 1.458,50 USD/ounce; vàng giao sau tăng 1,1% lên 1.495 USD/ounce.
Yếu tố chính đẩy giá vàng tăng trong phiên vừa qua là thông tin lĩnh vực chế tạo của Mỹ tháng 9/2019 giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một thập kỷ, giữa bối cảnh căng thẳng thương mại với Trung Quốc vẫn tiếp diễn. Ngay sau thông tin này, các chỉ số chính trên thị trường chứng khoán Mỹ đều rơi vào vùng đỏ, trong khi đồng USD rời khỏi mức đỉnh của nhiều năm.
Ông Phillip Streible, chiến lược gia cấp cao về thị trường hàng hóa thuộc công ty môi giới đầu tư RJO Futures cho biết, thông tin trên cho thấy nền kinh tế Mỹ nhiều khả năng sẽ có những điều chỉnh đáng kể, khiến giới đầu tư đang trở lại với các tài sản trú ẩn an toàn.
Chuyên gia này cũng lưu ý những số liệu yếu đi (về kinh tế Mỹ) có thể là cơ sở để Fed cắt giảm lãi suất hơn nữa. Giá vàng luôn nhạy cảm với các động thái điều chỉnh lãi suất của Mỹ, bởi lãi suất giảm sẽ khiến đồng USD yếu đi, và làm tăng đáng kể sức hấp dẫn của các tài sản không sinh lời như vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,7% lên 17,28 USD/ounce, sau khi đã có lúc rơi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 20/8 là 16,85 USD/ounce; giá bạch kim giảm 0,3% xuống 879,72 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng chạm mức thấp nhất 1 tháng do lo ngại về nhu cầu tiêu thụ tại Trung Quốc. Giá đồng trên Sàn giao dịch kim loại London chốt phiên giảm 0,7% còn 5.686 USD/tấn, sau khi đã chạm mức thấp nhất 1 tháng là 5.588 USD/tấn vào đầu phiên giao dịch. Tiêu thụ đồng tại Trung Quốc, chiếm gần một nửa nhu cầu đồng toàn cầu, dự kiến đạt 24 triệu tấn trong năm nay.
Trong khi đó, giá nhôm có lúc chạm 1.713,50 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 1/2017 do lo ngại nhu cầu tiêu thụ của các ngành đóng gói và vận tải sẽ yếu đi. Chốt phiên, giá nhôm tăng nhẹ 1,1% lên 1.740 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê Arabica hạn tháng 12/2019 tại sàn New York (ICE) kỳ giảm 0,25 cent, hay 0,2%, xuống 1,0135 USD/lb; Robusta kỳ hạn tháng 11/2019 tại sàn London giảm 9 USD, hay 0,7% còn 1.311 USD/tấn. Xuất khẩu cà phê Robusta từ vùng Sumatra của Indonesia đã tăng 75% trong tháng 9/2019 so với cùng kỳ năm ngoái đạt 21.041 tấn.
Giá đường thô tại sàn ICE đã tăng lên mức cao nhất hơn 7 tháng do các quỹ tích cực mua vào. Giá đường thô tháng 3/2020 tăng 0,23 cent, tương đương 1,8%, lên 12,88 cent/lb sau khi đạt đỉnh 12,90 cent/lb vào phiên giao dịch đầu tuần, mức cao nhất kể từ 28/2. Trong khi đó, giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 30 US cent, hay 0,09%, còn 344,00 USD/tấn sau khi có lúc đạt đỉnh 347,20 USD, mức cao nhất kể từ đầu tháng 3.
Giá đậu tương tại Mỹ đã tăng lên mức cao nhất hơn 2 tháng khi Trung Quốc mua đậu tương của nước này và lượng tồn kho của Mỹ thấp hơn dự kiến.
Trên sàn Chicago, đậu tương đã tăng 1,4% lên 9,19-1/2 USD/bushel, cao nhất kể từ 22/7. Giá ngô cũng tăng 0,8% đạt 3,92-1/2 USD/busel, cao nhất kể từ tháng 12/8.
Các công ty Trung Quốc đã mua 600.000 tấn đậu tương Mỹ trong ngày 30/9. Đây là một phần của hạn ngạch miễn thuế cấp cho những nhà nhập khẩu mua với khối lượng đạt 2 triệu tấn trong tuần này. Các thương nhân Mỹ hy vọng Trung Quốc còn mua nhiều đậu tương của Mỹ nữa trong thời gian tới.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng trở lại, sau khi giảm xuống mức thấp nhất gần 8 tuần trong phiên trước đó. Dầu cọ kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn Bursa (Malaysia) tăng 1,6% lên 2.169 ringgit (517,66 USD)/tấn, sau khi giảm tổng cộng 1,6% trong 2 phiên trước đó.
Giá cao su tại Tokyo giảm do lo ngại dư cung và nhu cầu của Trung Quốc suy giảm. Cao su kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn TOCOM giảm 1,8 JPY xuống 158,7 JPY (1,46 USD)/kg. Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn SICOM giảm 1,2% xuống 126,9 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

53,62

-0,45

Dầu Brent

USD/thùng

58,89

-0,36

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

36.440,00

-110,00

-0,30%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,30

+0,02

+0,79%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

158,10

+0,73

+0,46%

Dầu đốt

US cent/gallon

191,13

+1,28

+0,67%

Dầu khí

USD/tấn

587,50

+0,25

+0,04%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

54.150,00

-150,00

-0,28%

Vàng New York

USD/ounce

1.485,20

-3,80

-0,26%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.109,00

+36,00

+0,71%

Bạc New York

USD/ounce

17,34

+0,03

+0,19%

Bạc TOCOM

JPY/g

60,10

+1,30

+2,21%

Bạch kim

USD/ounce

876,85

-0,76

-0,09%

Palađi

USD/ounce

1.658,00

+0,79

+0,05%

Đồng New York

US cent/lb

257,05

+1,00

+0,39%

Đồng LME

USD/tấn

5.686,00

-39,00

-0,68%

Nhôm LME

USD/tấn

1.740,00

+18,50

+1,07%

Kẽm LME

USD/tấn

2.305,00

-73,00

-3,07%

Thiếc LME

USD/tấn

16.250,00

+325,00

+2,04%

Ngô

US cent/bushel

391,25

-1,25

-0,32%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

496,00

-2,75

-0,55%

Lúa mạch

US cent/bushel

281,75

-0,25

-0,09%

Gạo thô

USD/cwt

11,86

-0,01

-0,13%

Đậu tương

US cent/bushel

917,50

-2,00

-0,22%

Khô đậu tương

USD/tấn

308,40

-0,60

-0,19%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,09

+0,21

+0,73%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

451,40

-0,80

-0,18%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.453,00

+11,00

+0,45%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

101,35

+0,20

+0,20%

Đường thô

US cent/lb

12,88

+0,23

+1,82%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,75

-1,00

-1,00%

Bông

US cent/lb

60,90

-0,08

-0,13%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

361,70

-5,40

-1,47%

Cao su TOCOM

JPY/kg

156,70

-2,00

-1,26%

Ethanol CME

USD/gallon

1,39

-0,01

-0,43%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg