Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do dự trữ dầu của Mỹ giảm ngoài dự kiến. Kết thúc phiên này, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 12/2019 tăng 1,49 USD lên 55,97 USD/thùng, trong khi dầu Brent Biển Bắc giao cùng kỳ hạn tăng 1,47 USD lên 61,17 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, dự trữ dầu thô của nước này đã giảm 1,7 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 18/10, trái ngược với dự đoán các nhà phân tích là tăng 2,2 triệu thùng.
Giá dầu cũng được hỗ trợ trước thông tin Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đối tác (OPEC+) đang cân nhắc quyết định cắt giảm sản lượng nhiều hơn tại cuộc họp tháng 12/2019 trong bối cảnh tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm tốc và nhu cầu năng lượng hạ nhiệt vào năm tới.
Goldman Sachs dự báo giá dầu Brent sẽ tăng trong vài tuần tới, và cuối năm sẽ ở mức khoảng 62 USD/thùng, còn năm 2020 sẽ khoảng 60 USD/thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trước diễn biến mới xung quanh tiến trình Brexit. Vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.491 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tăng khoảng 0,6% lên 1.495,70 USD/ounce.
Suki Cooper, nhà phân tích kim loại quý thuộc Standard Chartered Bank, nhận định những bất ổn xung quanh tiến trình Brexit và mối lo ngại về tác động của vấn đề này đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang khiến các nhà đầu tư hướng sự chú ý vào vàng.
Các thành viên Liên minh châu Âu (EU) ngày 23/10 đã nhất trí về mặt nguyên tắc về việc lùi thời điểm Brexit sau ngày 31/10, song chưa quyết định được là khoảng thời gian gia hạn này có thể kéo dài trong bao lâu.
Trước đó, ngày 22/10, các nghị sĩ Anh hoãn bỏ phiếu cho dự thảo thỏa thuận Brexit mới do ông Johnson đạt được với EU hôm 17/10 với lý do cần có thời gian xem xét, tranh luận. Quốc hội Anh đã 3 lần bác bỏ thỏa thuận Brexit kể từ năm 2016. Trước đó nữa, Quốc hội Anh hôm 19/10 đã buộc Thủ tướng Anh Boris Johnson gửi thư yêu cầu trì hoãn Brexit.
Các nhà đầu tư đang chờ cuộc họp vào cuối tháng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), với đồn đoán cơ quan này sẽ giảm lãi suất cơ bản lần thứ ba liên tiếp trong năm nay. Theo các nhà giao dịch, có 91% cơ hội Fed sẽ hạ lãi suất 25 điểm cơ bản tại cuộc họp tới.
Edward Moya, một nhà phân tích thị trường của OANDA, nhận định nhu cầu mua vàng sẽ được hỗ trợ khi Fed tiếp tục hạ lãi suất và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) duy trì chương trình hỗ trợ kinh tế.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng và kẽm cùng đi lên. Đồng tăng trong phiên vừa qua do làn sóng biểu tình ở Chile bắt đầu làm gián đoạn nguồn cung, nhưng đà tăng bị hạn chế bởi lo ngại tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm thấp khiến nhu cầu chậm lại.
Kết thúc phiên giao dịch, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 1,1% lên 5.881 USD/tấn, sau khi có lúc đạt 5.885 USD/tấn, cao nhất kể từ 16/9/2019.
Tập đoàn Nghiên cứu Đồng quốc tế cho biết thị trường sẽ trở lại dư thừa nguồn cung vào năm 2020 (dư khoảng 281.000 tấn), sau khi thiếu hụt 320.000 tấn trong năm nay.
Giá kẽm cũng tăng trong phiên vừa qua, thêm 0,1% lên 2.461 USD/tấn – cao nhất kể từ tháng 7/2019 và cao hơn nhiều mức thấp nhất 3 năm là 2.190 USD/tấn chạm tới hôm 3/9. Nguyên nhân do lượng kẽm lưu kho trên sàn LME giảm xuống 35.125 tấn, thấp nhất kể từ 1998, và triển vọng nguồn cung gần hạn sẽ còn khan hiếm. Thị trường kẽm toàn cầu đã thiếu hụt 106.000 tấn trong giai đoạn tháng 1-7/2019, theo Tập đoàn Nghiên cứu Kẽm và Chì quốc tế.
Trong số các kim loại cơ bản khác, nickel tăng 0,6% lên 16.590 USD/tấn, nhôm tăng 0,6% lên 1.730 USD/tấn, chì tăng 0,3% lên 2.224 USD/tấn, riêng thiếc giảm 1,8% xuống 16.550 USD/tấn.
Giá thép tại Trung Quốc tăng phiên thứ 2 liên tiếp do có thêm nhiều thành phố ở miền Bắc nước này cảnh báo về ô nhiễm và buộc các nhà máy hạn chế sản xuất.
Trên sàn Thượng Hải, thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 0,2% lên 3.312 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng cùng kỳ hạn tăng 0,4% lên 3.315 CNY/tấn; thép không gỉ kỳ hạn tháng 2 tới tăng 0,8% lên 14.975 CNY/tấn. Quặng sắt trên sàn Đại Liên cũng tăng thêm 1,2% lên 521 CNY/tấn.
Tồn trữ thép ở Trung Quốc giảm xuống 10,45 triệu tấn trong tuần tới 17/10/2019, mức thấp nhất kể từ 25/1/2019.
Trên thị trường nông sản, giá phê giảm. Arabica kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 1,15 US cent (0,1%) xuống 97,57 US cent/lb, trong khi robusta kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 7 USD (0,5%) xuống 1.241 USD/tấn.
Uganda dự báo xuất khẩu cà phê năm 2019/20 sẽ tăng khoảng 16% so với niên vụ trước do thời tiết thuận lợi và diện tích cây đến độ thu hoạch tăng lên.
Cacao tiếp tục tăng do Bảng Anh yếu đi. Cacao trên sàn London kỳ hạn tháng 3 tới tăng 9 GBP lên 1.843 GBP/tấn; cacao trên sàn New York (kỳ hạn tháng 12 tới) cũng tăng 9 USD (0,4%) lên 2.457 USD/tấn.
Dầu cọ đạt mức cao nhất 8 tháng do các loại dầu thực vật khác tăng lên. Dầu cọ thô kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Bursa (Malaysia) tăng 0,3% lên 2.323 ringgit (554.95 USD)/tấn, sau khi có lúc đạt mức cao nhất trong vòng 16 tháng.
Giá cao su kỳ hạn trên sàn Tokyo tăng lên mức cao nhất 5 tuần trong phiên vừa qua do lo ngại dịch bệnh trên cây cao su ở nước sản xuất số 1 thế giới – Thái Lan – có thể ảnh hưởng đến nguồn cung.
Cuối phiên giao dịch, hợp đồng kỳ hạn tháng 3 trên sàn TOCOM tăng 4,6 JPY (2,8%) lên 170,4 JPY (1,57 USD)/kg, mức tăng trong một ngày nhiều nhất kể từ đầu tháng 6. Lúc đầu phiên vừa qua có lúc giá đạt mức cao nhất kể từ 18/9 là 171,4 JPY/kg.
Một khu vực trồng cao su quan trọng của Thái Lan đã bị dịch nấm lá trên cây, có thể khiến sản lượng của khu vực này giảm một nửa.
Hiệp hội Cao su Tự nhiên thế giới (ANRPC) cho biết nguồn cung cao su toàn cầu giảm 8,3% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống 5,853 triệu tấn, trong khi nhu cầu tăng 0,8% lên 6,933 triệu tấn.
Một vài chỉ số giá cao su khác như sau: Hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 tại Thượng Hải giá vững ở 11.840 CNY (1.674 USD)/tấn; tại SICOM (kỳ hạn tháng 11) giảm 0,1% xuống 131,1 US cent/kg; loại TSR20 của Trung Quốc giảm 35 CNY xuống 10.015 CNY/tấn; loại TRS20 tại TOCOM (kỳ hạn tháng 4/2020) vững ở 148,9 JPY/kg.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
55,97
|
+1,49
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
61,17
|
+1,47
|
+2,46%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
38.240,00
|
+1.030,00
|
+2,77%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,29
|
+0,00
|
+0,18%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
164,89
|
-0,30
|
-0,18%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
196,37
|
-0,06
|
-0,03%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
590,75
|
-2,25
|
-0,38%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
55.520,00
|
+1.130,00
|
+2,08%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.495,20
|
-0,50
|
-0,03%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.200,00
|
+25,00
|
+0,48%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,57
|
-0,01
|
-0,09%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,30
|
+0,30
|
+0,49%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
921,22
|
+4,75
|
+0,52%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.747,68
|
+1,84
|
+0,11%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
267,00
|
-0,15
|
-0,06%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.881,00
|
+63,00
|
+1,08%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.730,00
|
+11,00
|
+0,64%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.468,00
|
+0,50
|
+0,02%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
16.550,00
|
-300,00
|
-1,78%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
387,75
|
-0,25
|
-0,06%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
520,75
|
+2,75
|
+0,53%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
296,75
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,92
|
-0,05
|
-0,42%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
948,25
|
0,00
|
0,00%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
308,60
|
+1,70
|
+0,55%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,58
|
-0,27
|
-0,88%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
462,40
|
+0,30
|
+0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.457,00
|
+9,00
|
+0,37%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
97,75
|
-1,15
|
-1,16%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,15
|
-0,03
|
-0,25%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
101,15
|
-0,05
|
-0,05%
|
Bông
|
US cent/lb
|
64,95
|
+0,28
|
+0,43%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
400,60
|
+4,80
|
+1,21%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
168,40
|
-2,00
|
-1,17%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,43
|
+0,01
|
+0,70%
|
Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg