Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng sau khi Nga cho biết sẽ tiếp tục hợp tác với Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) trong việc cắt giảm nguồn cung.
Kết thúc phiên này, dầu Brent tăng 81 US cent (1,22%) lên 67,20 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 59 US cent (0,97%) lên 61,11 USD/thùng.
Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak ngày 23/12 cho biết OPEC và Nga sẽ tiếp tục hợp tác cho đến khi nào điều này còn mang lại hiệu quả. Trong tháng này OPEC và các nước sản xuất dầu mỏ đã nhất trí cắt giảm sản lượng thêm 500.000 thùng/ngày kể từ 1/1/2020.
Trong khi đó, ông Bjornar Tonhaugen, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu thị trường dầu của Rystad Energy, cho biết OPEC cần nỗ lực nhiều hơn để cân bằng cán cân cung cầu thị trường trên cơ sở bền vững. Theo ông Tonhaugenm, việc OPEC cắt giảm sản lượng sẽ không giải quyết triệt để vấn đề trên và thay vào đó họ cần đề xuất một giải pháp “tình thế” để vượt qua giai đoạn khó khăn trong quý I/2020.
Giá dầu tăng trong phiên vừa qua một phần cũng bởi Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 24/12 cho biết ông và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ sớm ký kết thỏa thuận thương mại giai đoạn một. Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã tác động bất lợi tới thị trường dầu mỏ do những quan ngại về nguy cơ tăng trưởng nhu cầu dầu “giảm tốc”.
Giá than luyện cốc tại Trung Quốc chạm mức thấp nhất 1 năm, sau khi nhập khẩu than vào nước này trong tháng 11/2019 tăng. Giá than luyện cốc kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Đại Liên giảm 2,3% xuống 1.151 CNY (164,23 USD)/tấn, thấp nhất kể từ ngày 10/1/2019.
Trung Quốc – nước sản xuất thép hàng đầu thế giới – nhập khẩu 6,18 triệu tấn than luyện cốc trong tháng 11/2019, tăng 16% so với tháng 11/2018. Tính chung trong 11 tháng đầu năm 2019, nhập khẩu than luyện cốc của nước này đạt 72,8 triệu tấn tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái, Tổng cục Hải quan Trung Quốc cho biết.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng, vượt ngưỡng 1.500 USD/ounce, do những quan ngại về triển vọng kinh tế Mỹ.
Cuối phiên này, vàng giao ngay tăng gần 1% lên 1.499,48 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 5/11, trong khi giá vàng giao tháng 2/2020 tăng 1,1% lên 1.504,80 USD/ounce.
Theo nhà phân tích Edward Meir của ED&F Man Capital Markets, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp hiện vẫn chưa có sự bứt phá và nếu chi tiêu tiêu dùng bắt đầu chững lại thì nền kinh tế Mỹ có thể sẽ tăng trưởng chậm lại đáng kể. Số đơn hàng mới đối với các mặt hàng thiết yếu của Mỹ trong tháng 11/2019 chỉ tăng nhẹ, trong khi xuất khẩu các mặt hàng này sụt giảm cho thấy môi trường đầu tư kinh doanh vẫn cản trở đà tăng trưởng kinh tế trong quý IV/2019. Giới đầu tư luôn theo dõi sát sao các số liệu kinh tế của Mỹ để dự đoán xu hướng chính sách lãi suất của nước này trong tương lai. Thông thường, giá vàng luôn chịu ảnh hưởng của việc điều chỉnh lãi suất.
Trong khi đó, sự lạc quan của giới đầu tư về đàm phán thương mại Mỹ-Trung Quốc đã đẩy các thị trường chứng khoán Mỹ tăng lên những mức cao kỷ lục. Các thị trường chứng khoán trên thế giới hướng tới một năm tốt nhất trong một thập niên qua, trong khi thị trường chứng khoán Phố Wall rời khỏi những mức cao gần kỷ lục. Ông Meir cho rằng sức mua của giới đầu tư trên thị trường đang ở mức quá cao và nếu bước vào giai đoạn điều chỉnh thì giá vàng có thể hưởng lợi.
Cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung Quốc đã khiến giá vàng tăng 16%, giúp kim loại quý này đang hướng tới một năm tăng mạnh nhất kể từ năm 2010.
Về những kim loại quý khác, giá palađi tăng 0,5% lên 1.884,16 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,4% lên 940,08 USD/ounce, trong khi giá bạc tăng gần 2% lên 17,76 USD/ounce - phiên tăng giá thứ năm liên tiếp.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kẽm giảm phiên thứ 2 liên tiếp do tồn trữ tại Trung Quốc tăng, đẩy nguồn cung kẽm tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, kẽm kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,7% xuống 2.274 USD/tấn, tiến gần tới mức thấp nhất 3 tháng (2.201 USD/tấn) của ngày 3/12/2019.
Nhà phân tích Colin Hamilton thuộc BMO cho biết, thị trường kẽm tinh chế toàn cầu sẽ chuyển sang dư thừa trong năm tới sau vài năm thiếu hụt và dự báo giá kẽm sẽ ở mức trung bình 2.249 USD/tấn trong năm 2020.
Số liệu của SMM cho thấy, tồn trữ kẽm thởi tại Trung Quốc tính tới ngày 23/12/2019 là 118.700 tấn, tăng 5.400 tấn so với 20/12/2019.
Trong khi đó, giá nhôm trên sàn London tăng 0,6% lên 1.814 USD/tấn vào cuối phiên, trong phiên có lúc đạt mức cao nhất kể từ ngày 8/11/2019 do dự trữ nhôm tại Thượng Hải giảm xuống 193.820 tấn, so với trên 700.000 tấn hồi tháng 3/2019 và là mức thấp nhất kể từ đầu năm 2017.
Đối với nhóm sắt thép, trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,7% xuống 3.510 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 0,3% xuống 3.553 CNY/tấn; thép không gỉ kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 0,8% xuống 14.310 CNY/tấn. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Đại Liên tăng 0,3% lên 643 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê tăng trong bối cảnh giao dịch trầm lắng trước kỳ nghỉ lễ Giáng sinh. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York tăng 3,3% tương đương 4,1 US cent lên 1,294 USD/lb; robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 23 USD tương đương 1,7% lên 1.358 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York giảm 8 US cent tương đương 0,6% xuống 13,37 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn London tăng 1,5 USD tương đương 0,4% lên 359,1 USD/tấn.
Giá đậu tương duy trì ở mức cao nhất 6 tuần do kỳ vọng vào thỏa thuận thương mại Mỹ - Trung giai đoạn 1. Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 0,32% lên 9,36-1/2 USD/bushel; lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 0,28% lên 5,41 USD/bushel, trong khi ngô kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 0,13% xuống 3,87-1/2 USD/bushel.
Về mặt hàng cao su, hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn TOCOM tăng 1,4 JPY (0,0128 USD) lên 195 JPY/kg. Trong khi đó, trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2020 tăng 40 CNY (5,71 USD) lên 12.810 CNY/tấn; loại TSR20 tăng 85 CNY lên 10.735 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
61,11
|
+0,59
|
+0,97%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
67,20
|
+0,81
|
+1,22%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
42.480,00
|
+360,00
|
+0,85%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,17
|
-0,04
|
-1,90%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
172,70
|
+2,19
|
+1,28%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
203,63
|
+1,41
|
+0,70%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
615,25
|
+2,75
|
+0,45%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
59.430,00
|
+420,00
|
+0,71%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.504,80
|
+16,10
|
+1,08%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.262,00
|
+23,00
|
+0,44%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,85
|
+0,35
|
+2,02%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
62,50
|
+0,40
|
+0,64%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
943,55
|
-0,03
|
0,00%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.886,24
|
+0,67
|
+0,04%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
282,75
|
+1,90
|
+0,68%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.215,00
|
+25,00
|
+0,40%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.814,00
|
+10,00
|
+0,55%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.274,00
|
-17,00
|
-0,74%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
17.125,00
|
-175,00
|
-1,01%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
387,50
|
-1,25
|
-0,32%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
541,00
|
+1,50
|
+0,28%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
285,75
|
-2,75
|
-0,95%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,14
|
+0,02
|
+0,11%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
944,75
|
+2,50
|
+0,27%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
306,10
|
+0,30
|
+0,10%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
34,16
|
+0,11
|
+0,32%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
478,00
|
+1,20
|
+0,25%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.443,00
|
+16,00
|
+0,66%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
129,40
|
+4,10
|
+3,27%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,37
|
-0,08
|
-0,59%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
103,00
|
-0,95
|
-0,91%
|
Bông
|
US cent/lb
|
68,70
|
+0,09
|
+0,13%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
420,90
|
-1,20
|
-0,28%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
196,10
|
+1,10
|
+0,56%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,40
|
+0,01
|
+0,72%
|