Trên thị trường năng lượng, giá dầu ít biến động. Kết thúc phiên, dầu Brent tăng 0,6% (35 US cent) lên 62,74 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ giảm 8 US cent xuống 56,41 USD/thùng.
Reuters dẫn nguồn tin thân cận cho hay Saudi Arabia, nước xuất khẩu dầu mỏ hàng đầu thế giới, đã nhanh chóng đưa công suất sản xuất trở về mức trước lúc xảy ra các vụ tấn công nhằm vào hai cơ sở dầu chủ chốt của nước này là 11,3 triệu thùng/ngày.
Trong khi đó, ngày 25/9, Nhà Trắng công bố nội dung cuộc điện đàm hồi tháng Bảy giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy, vụ việc đang làm dậy sóng chính trường Mỹ và khiến ông Trump đối mặt với nguy cơ bị luận tội. Theo bản ghi chép nội dung dài năm trang này, trong cuộc điện đàm, Tổng thống Trump đã hối thúc tân Tổng thống Ukraine khi đó Zelenskiy mở cuộc điều tra tham nhũng nhằm vào ông Joe Biden và con trai ông này là Hunter Biden.
Giới phân tích cho rằng giá dầu còn chịu áp lực từ số liệu ảm đạm từ các nền kinh tế hàng đầu châu Âu và Nhật Bản.
Tuy nhiên, những kỳ vọng căng thẳng thương mại Mỹ-Trung có thể dịu xuống đã hạn chế phần nào đà giảm của giá “vàng đen”, từ đó thúc đẩy nhu cầu dầu. Tổng thống Trump ngày 25/9 cho biết hai bên có thể đạt được một thỏa thuận sớm hơn dự đoán.
Tổng thống Trump và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cũng đã ký kết một thỏa thuận thương mại giới hạn, qua đó mở cửa thị trường Nhật Bản cho khoảng 7 tỷ USD hàng hóa Mỹ mỗi năm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do hoạt động mua của các nhà đầu cơ tăng, mặc dù đà đi lên bị kiềm chế bởi USD tăng giá.
Cuối phiên, vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.507,87 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn giao sau tăng 0,2% lên 1.515,20 USD/ounce.
Tuy nhiên, đồng USD ổn định ở gần mức đỉnh của ba tuần do tình hình chính trị bất ổn tại Mỹ sau vụ công bố nội dung điện đàm của ông Trump đã làm giảm sức hấp dẫn của vàng. Thông tin này đã thúc đẩy các nhà đầu tư tìm đến đồng bạc xanh. Tuy nhiên, các chỉ số chứng khoán và lợi suất trái phiếu của Mỹ sụt giảm vẫn hỗ trợ cho giá vàng.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cao cấp thuộc OANDA, nhận định thị trường có thể chứng kiến giá vàng leo lên mức 1.600 USD/ounce trong trường hợp số liệu kinh tế toàn cầu ngày càng yếu kém và những rủi ro chính trị có thể thúc đẩy Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc phải đưa ra các biện pháp mạnh tay.
Theo báo cáo của Chính phủ Mỹ, hoạt động đầu tư kinh doanh của nước này trong quý II/2019 đã giảm mạnh hơn so với dự báo trước đó và tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp ảm đạm, phủ bóng đen lên nền kinh tế vốn đang bị đeo bám bởi nỗi lo suy thoái.
Về mặt kỹ thuật, chuyên gia phân tích kỹ thuật Wang Tao thuộc hãng Reuters cho hay giá vàng có thể rơi xuống mức 1.488 USD/ounce sau khi phá ngưỡng hỗ trợ là 1.514 USD/ounce.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,2% xuống 17,87 USD/ounce. Giá bạch kim giao ngay tăng 1,1% lên 935,23 USD/ounce, còn giá palladium tăng 1,7% lên 1.670,54 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc tăng hơn 2% trong phiên vừa qua mặc dù lượng giao dịch không nhiều vì sắp tới kỳ nghỉ lễ Quốc khánh nước này. Đàm phán thương mại Mỹ - Trung có dấu hiệu tiến triển, sau khi Tổng thống Donald Trump thông báo có thể đạt một thỏa thuận để kết thúc cuộc chiến thương mại kéo dài đã gần 15 tháng với Trung Quốc sớm hơn so với suy nghĩ của mọi người. Tin này đã tạo tâm lý hứng khởi cho các nhà đầu tư.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên tăng 2,2% lên 637 CNY (89,39 USD)/tấn vào cuối phiên giao dịch, đầu phiên có lúc giá tăng 3%; quặng sắt hàm lượng 62% nhập khẩu vào Trung Quốc giá vững ở 93 USD/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Singapore tăng 2,3% lên 88,89 USD/tấn.
Thép không gỉ cũng tăng trong phiên vừa qua: kỳ hạn tháng 2/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 1% lên 15.750 CNY/tấn, trái với sự sụt giảm của phiên trước. Tuy nhiên, thép cây dùng trong xây dựng trên sàn Thượng Hải giảm 1,4% xuống 3.445 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng cũng giảm 1,7% xuống 3.460 CNY/tấn.
Nhiều nhà máy thép quanh Bắc Kinh cắt giảm công suất sản xuất thép để làm cho không khí sạch hơn trước ngày Quốc khánh.
Sản lượng thép thô toàn cầu trong tháng 8/2019 tăng 3,4% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 156 triệu tấn, trong đó sản lượng của Trung Quốc tăng lên 87,3 triệu tấn, tức là cao hơn 9,3% so với tháng 8/2018, theo số liệu của Hiệp hội Thép thế giới.
Trên thị trường nông sản, giá đường trắng và cà phê arabica giảm, trong khi cacao tăng.
Đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 giảm 0,17 US cent tương đương 0,3% xuống 11,63 US cent/lb, trong khi đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 20 US cent tương đương 0,1% lên 339,8 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt mức cao nhất trong vòng 6 tháng là 342 USD/tấn.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,1 US cent tương đương 0,1% xuống 1,0085 USD/lb, trong khi robusta kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 18 GBP tương đương 1% lên 1.885 GBP/tấn.
Đối với cacao, kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn New York tăng 36 USD tương đương 1,5% lên 2.505 USD/tấn, trong khi kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn London tăng 18 GBP tương đương 1% lên 1.885 GBP/tấn.
Giá cao su đồng loạt giảm trên các sàn giao dịch Châu Á. Tại Tokyo, hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 0,5 JPY (0,0046 USD) tương đương 0,3% xuống 166,3 JPY/kg; kỳ hạn tháng 1/2020 tại Thượng Hải giảm 75 CNY (10,52 USD) tương đương 0,6% xuống 11.730 CNY/tấn; loại TSR20 của Trung Quốc giảm 0,7% xuống 9.980 CNY/tấn, trong khi tại Singapore giá 129,8 US cent/lb (kỳ hạn tháng 10/2019).
Giá dầu giảm trong 2 phiên trước và Saudi Arabia khôi phục sản lượng dầu nhanh hơn dự kiến là những yếu tố tác động tới thị trường cao su trong phiên vừa qua.
Dầu cọ thô đầu tuần này đã giảm xuống mức thấp nhất 6 tuần, sau đó ổn định và phiên vừa qua ở mức 2.142 ringgit (510,97 USD)/tấn, giảm 0,2% so với phiên trước. Tại Rotterdam, giá dầu cọ thô ngày 25/9 ở mức 535 USD/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,41

-0,08

Dầu Brent

USD/thùng

62,74

+0,35

+0,56%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

37.870,00

+270,00

+0,72%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,43

-0,07

-2,96%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

165,60

-0,52

-0,31%

Dầu đốt

US cent/gallon

195,01

-0,50

-0,26%

Dầu khí

USD/tấn

593,25

-3,25

-0,54%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

56.220,00

+60,00

+0,11%

Vàng New York

USD/ounce

1.512,30

-2,90

-0,19%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.204,00

-6,00

-0,12%

Bạc New York

USD/ounce

17,90

-0,01

-0,07%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,30

+0,20

+0,32%

Bạch kim

USD/ounce

928,98

-2,42

-0,26%

Palađi

USD/ounce

1.667,14

-1,90

-0,11%

Đồng New York

US cent/lb

257,70

-0,05

-0,02%

Đồng LME

USD/tấn

5.722,00

-65,00

-1,12%

Nhôm LME

USD/tấn

1.737,00

-15,00

-0,86%

Kẽm LME

USD/tấn

2.302,00

+12,00

+0,52%

Thiếc LME

USD/tấn

16.300,00

-230,00

-1,39%

Ngô

US cent/bushel

372,50

-1,75

-0,47%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

484,25

+7,00

+1,47%

Lúa mạch

US cent/bushel

270,25

-2,00

-0,73%

Gạo thô

USD/cwt

12,08

+0,19

+1,56%

Đậu tương

US cent/bushel

888,50

-0,75

-0,08%

Khô đậu tương

USD/tấn

295,60

-2,00

-0,67%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,17

-0,03

-0,10%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

447,60

-1,30

-0,29%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.505,00

+36,00

+1,46%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

100,85

-0,10

-0,10%

Đường thô

US cent/lb

12,62

-0,04

-0,32%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

97,50

+0,50

+0,52%

Bông

US cent/lb

60,28

-0,17

-0,28%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

372,00

+2,80

+0,76%

Cao su TOCOM

JPY/kg

164,40

-1,90

-1,14%

Ethanol CME

USD/gallon

1,39

-0,01

-0,43%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg