Trên thị trường năng lượng, giá dầu quay đầu giảm sau 4 phiên tăng liên tiếp do dự báo sản lượng dầu của Mỹ sẽ tăng trong khi số liệu công nghiệp của Trung Quốc gây lo ngại.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent giảm 45 US cent, tương đương 0,7%, xuống còn 61,57 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 85 US cent (1,5%) xuống 55,81 USD/thùng. Vào đầu phiên giao dịch này, giá dầu Brent và WTI đều có lúc tăng lên các mức cao nhất trong nhiều tháng qua (lần lượt 62,34 USD/thùng và 56,92 USD/thùng).
Theo kết quả cuộc thăm dò ý kiến các nhà phân tích của hãng tin Reuters, dự trữ dầu thô của Mỹ dự kiến tăng khoảng 700.000 thùng trong tuần qua.
Trong khi đó, lợi nhuận của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp của Trung Quốc tháng 9/2019 giảm tháng giảm thứ 2 liên tiếp, khi giá sản xuất tiếp tục đi xuống cho thấy tác động tiêu cực của tình trạng kinh tế tăng trưởng chậm lại và cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung. Ông Jim Ritterbusch, Chủ tịch công ty dầu khí Ritterbusch and Associates ở Galena, Illinois (Mỹ), cho biết số liệu kinh tế tiêu cực của Trung Quốc bất lợi cho giá dầu trong khi sự lạc quan liên quan tới tiến triển đàm phán thương mại Mỹ-Trung lại tác động tích cực lên thị trường này.
Phát biểu với báo giới, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho hay ông dự kiến sẽ ký một phần quan trọng trong thỏa thuận thương mại với Trung Quốc sớm hơn so với kế hoạch đề ra, song chưa đề cập chi tiết về thời gian cụ thể. Nhận định về vấn đề này, nhà phân tích Warren Patterson của ING cho rằng nếu đàm phán thương mại Mỹ-Trung tiếp tục tiến triển thì sẽ giúp cải thiện niềm tin của giới đầu tư trên thị trường dầu thế giới.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm gần 1% do tiến triển của đàm phán thương mại Mỹ-Trung đẩy thị trưởng chứng khoán Mỹ tăng điểm mạnh, trong đó chỉ số S&P 500 lập mức cao kỷ lục mới.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay hạ 0,8% xuống 1.492,17 USD/ounc, trong khi vàng giao sau giảm 0,6% xuống 1.495,80 USD/ounce.
Theo chiến lược gia hàng hóa Phillip Streible của RJO Futures, thông tin tích cực về đàm phán thương mại Mỹ-Trung Quốc đã khiến các nhà đầu tư đang chuyển từ thị trường vàng sang chứng khoán.
Chỉ số tổng hợp S&P 500 của thị trường chứng khoán Phố Wall phiên vừa qua đã đạt mức cao kỷ lục 3.044,08 điểm, sau khi đàm phán thương mại Mỹ-Trung Quốc có tiến triển và báo cáo lợi nhuận tích cực của các doanh nghiệp.
Về những kim loại quý khác, giá palađi lần đầu tiên trong lịch sử đã vượt mốc 1.800 USD/ounce, tiếp tục nối dài giai đoạn tăng giá kỷ lục do nguồn cung sụt giảm mạnh. Vào lúc 00 giờ 47 phút ngày 29/10 (giờ Việt Nam), giá palađi tăng 2,1% lên 1.800,84 USD/ounce. im loại quý này đã tăng khoảng 43% kể từ đầu năm 2019 đến nay.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kẽm tăng lên mức cao nhất 4 tháng do dự trữ giảm, làm dấy lên mối lo ngại thiếu hụt nguồn cung, trong khi giá đồng tăng lên mức cao nhất gần 5 tuần do kỳ vọng tiến triển trong các cuộc đàm phán thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc.
Giá kẽm trên sàn London kết thúc phiên tăng 1,3% lên 2.542 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.549 USD/tấn, hướng theo mức cao nhất kể từ ngày 14/6/2019 đạt được trong tuần trước (2.567,35 USD/tấn), do dự trữ kẽm tại London giảm xuống 57.775 tấn. Trong tháng 4/2019, dự trữ kẽm giảm xuống 50.425 tấn, thấp nhất kể từ những năm 1990. Nhu cầu kẽm toàn cầu trong năm nay ước tính đạt khoảng 14 triệu tấn. Một số nhà phân tích dự kiến thiếu hụt kẽm hàng năm khoảng 200.000 tấn.
Giá đồng giảm 0,3% xuống 5.908 USD/tấn, trong đầu phiên giao dịch đạt 5.927 USD/tấn, cao nhất gần 5 tuần.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm lần đầu tiên trong 5 phiên, sau khi 1 liên doanh khai thác giữa Vale SA và BHP Group Brazil giành được quyền tiếp tục hoạt động sau vụ vỡ đập năm 2015. Kết thúc phhiên, quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên giảm 0,1% xuống 627 CNY (88,77 USD)/tấn. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 0,2% lên 3.327 CNY/tấn, trong khi giá thép cuộn cán nóng giảm 0,1% xuống 3.341 CNY/tấn. Giá thép không gỉ tăng 0,5% lên 15.005 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đường tăng lên mức cao nhất gần 2 tuần do các nhà đầu tư mua mạnh và đồng real Brazil tăng. Giá cà phê cũng tăng.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn ICE tăng 0,19 US cent tương đương 1,5% lên 12,54 US cent/lb, trong phiên có lúc đạt 12,59 US cent/lb, cao nhất gần 2 tuần; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn London tăng 3,6 USD, tương đương 1,2%, lên 340,8 USD/tấn. Dịch vụ giám sát cây trồng EU cắt giảm dự báo năng suất củ cải đường EU trong năm nay xuống 71,3 tấn/ha, song con số này vẫn cao hơn 3,5% so với năng suất vụ thu hoạch năm ngoái.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn ICE tăng 1,05 US cent tương đương 1,1% lên 1,005 USD/lb. Tuy nhiên, giá cà phê Arabica vẫn chạm mức thấp lịch sử, thấp hơn chi phí sản xuất trong nhiều khu vực. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London tăng 27 USD, tương đương 2,2%, lên 1.277 USD/tấn.
Giá đậu tương tại Mỹ tăng từ mức thấp nhất 2 tuần do kỳ vọng tiến triển trong các cuộc đàm phán thương mại giữa Washington và Bắc Kinh để giải quyết xung đột đã làm giảm xuất khẩu nông sản của Mỹ sang Trung Quốc. Trong khi đó, giá ngô và lúa mì giảm do kỳ vọng Bộ Nông nghiệp Mỹ có thể đưa ra báo cáo tích cực về điều kiện cây trồng và vụ thu hoạch Mỹ.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương tăng 0,19% lên 9,2-3/4 USD/bushel, trong phiên trước đó giảm 1% xuống 9,19-1/2 USD/bushel, thấp nhất 2 tuần. Trong khi đó, giá ngô giảm 0,78% xuống 3,84 USD/bushel và giá lúa mì giảm 0,97% xuống 5,11-3/4 USD/bushel.
Giá cao su tại Tokyo giảm theo xu hướng ở Thượng Hải và giá dầu thô suy yếu. Trên sàn TOCOM, giá cao su kỳ hạn tháng 4/2020 ở mức 170,4 JPY (1,57 USD)/kg và giá cao su TSR20 giao cùng kỳ hạn ở mức 148,9 JPY/kg. Đồng thời, trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 135 CNY (19,13 USD) xuống 11.710 CNY/tấn và giá cao su TSR20 giảm 90 CNY xuống 9.890 CNY/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

55,81

-0,85

-1,5%

Dầu Brent

USD/thùng

61,57

-0,45

+0,7%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.590,00

-150,00

-0,39%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,46

+0,01

+0,41%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

167,48

+0,20

+0,12%

Dầu đốt

US cent/gallon

196,12

-0,06

-0,03%

Dầu khí

USD/tấn

593,25

+1,50

+0,25%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.960,00

-130,00

-0,23%

Vàng New York

USD/ounce

1.494,00

-1,80

-0,12%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.213,00

-35,00

-0,67%

Bạc New York

USD/ounce

17,80

-0,08

-0,45%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,50

-0,60

-0,95%

Bạch kim

USD/ounce

913,78

-5,40

-0,59%

Palađi

USD/ounce

1.800,34

-2,49

-0,14%

Đồng New York

US cent/lb

268,05

-0,25

-0,09%

Đồng LME

USD/tấn

5.908,00

-17,00

-0,29%

Nhôm LME

USD/tấn

1.737,00

+9,00

+0,52%

Kẽm LME

USD/tấn

2.543,50

+33,50

+1,33%

Thiếc LME

USD/tấn

16.725,00

+50,00

+0,30%

Ngô

US cent/bushel

383,25

-0,75

-0,20%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

511,75

0,00

0,00%

Lúa mạch

US cent/bushel

295,25

-1,25

-0,42%

Gạo thô

USD/cwt

11,78

-0,05

-0,46%

Đậu tương

US cent/bushel

934,50

-1,00

-0,11%

Khô đậu tương

USD/tấn

304,00

0,00

0,00%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,65

-0,13

-0,42%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

460,90

-0,20

-0,04%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.504,00

+21,00

+0,85%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

100,50

+1,05

+1,06%

Đường thô

US cent/lb

12,54

+0,19

+1,54%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,15

-3,05

-3,01%

Bông

US cent/lb

64,82

+0,03

+0,05%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

406,90

-3,10

-0,76%

Cao su TOCOM

JPY/kg

166,40

-0,70

-0,42%

Ethanol CME

USD/gallon

1,43

-0,02

-1,25%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg