Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng vì nhà đầu tư giảm bớt lo ngại về tình trạng dư cung khi tồn trữ dầu thô của Mỹ giảm mạnh, và lo ngại bão lớn ảnh hưởng tới sản lượng của Mỹ, giữa bối cảnh nhu cầu dầu tăng lên khi hai đường ống mới ở Tây Texas bắt đầu đi vào hoạt động.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn New York tăng 0,93 USD lên 56,71 USD/thùng; dầu Brent giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 0,59 USD, chốt phiên ở mức 61,08 USD/thùng.
Cơn bão Dorian đang tiến đến Florida có thể gây ảnh hưởng tới các cơ sở sản xuất dầu thô ngoài khơi của Mỹ. Tháng trước, cơn bão Barry đã khiến cho các công ty dầu khí ngoài khơi nước Mỹ phải đóng cửa 74% công suất sản xuất.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, tồn trữ dầu thô của nước này, không tính lượng dự trữ xăng dầu chiến lược, trong tuần kết thúc ngày 23/8/2019 giảm 10 triệu thùng so với tuần trước đó do nhập khẩu chậm lại; tồn trữ xăng và các sản phẩm chưng cất cũng giảm hơn 2 triệu thùng. Với 427,8 triệu thùng, lượng tồn trữ dầu thô của Mỹ đang ở mức trung bình 5 năm.
Tồn trữ dầu thô tại trung tâm giao nhận dầu của Mỹ - Cushing, Oklahoma, nơi định giá dầu WTI kỳ hạn – tuần qua giảm gần 2 triệu thùng, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 12/2018. Xu hướng giảm này xảy ra sau khi hai đường ống dẫn dẫn dầu mới được mở ở Vịnh Permian trong tháng này, dẫn dầu thô tới vùng Duyên hải Vịnh Mexicoco của Mỹ và làm thắt chặt nguồn cung ở Cushing.
Trong khi đó, những lo ngại về việc kinh tế thế giới sẽ chậm lại đang mờ dần, nhất là sau khi Bộ Thương mại Trung Quốc hôm 29/8/2019 cho biết Trung Quốc và Mỹ đang thảo luận về vòng đàm phán thương mại trực tiếp, dự kiến sẽ diễn ra vào tháng 9/2019, và hy vọng sẽ có nhiều tiến bộ. Truyền thông đang đưa tin Trung Quốc sẽ không sớm có bất cứ động thái trả đũa nào đối với thuế quan mới của Mỹ, và điều này đem lại hy vọng cuộc thương chiến giữa 2 bên sẽ không xấu đi.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục giảm khi USD và chứng khoán hồi phục. Vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.526,62 USD/ounce, gần sát mức cao nhất kể từ tháng 4/2013 (1.554,9 USD/ounce) của ngày 26/8/2019. Vàng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,8% xuống 1.536,9 USD/ounce.
Trên phố Wall, chỉ số Dow Jones tăng hơn 300 điểm trong phiên 29/8, chỉ số S&P 500 và Nasdaq cũng tăng mạnh. Khi thị trường chứng khoán lên điểm mạnh, các nhà đầu tư thường rời bỏ vàng để tìm đến các tài sản rủi ro. Vàng cũng chịu thêm sức ép từ việc đồng USD lên giá. Chỉ số USD, đo giá trị của đồng bạc xanh so với rổ các đồng tiền mạnh khác, tăng 0,29%, lên 98,5 điểm, trước khi thị trường vàng chốt phiên. Khi đồng bạc xanh mạnh lên, vàng được định giá theo đồng tiền này thường xuống giá, do trở nên đắt hơn với những người mua bằng các đồng tiền khác.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,8% xuống 18,19 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất kể từ tháng 4/2017 (18,65 USD/ounce). Bạch kim có thời điểm lập đỉnh mới của nhiều tháng trong phiên vừa qua, sau khi tăng 3,9% lên 935,12 USD/ounce (cao nhất kể từ tháng 4/2018), và kết thúc phiên ở mức tăng 1,4% so với đóng cửa phiên trước, đạt 912,62 USD/ounce. Palađi cũng tăng 0,3% lên 1.472,71 USD/ounce. Hai kim loại này được sử dụng nhiều trong lĩnh vực công nghiệp nên thường tăng giá khi kinh tế khả quan.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá thép cây trên thị trường Trung Quốc tăng vào đầu phiên giao dịch vừa qua nhưng đến lúc đóng cửa đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 5 tháng, nối tiếp chuỗi 4 phiên giảm liên tiếp, do triển vọng nhu cầu thiếu chắc chắn. Thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàng Thượng Hải giảm 0,6% xuống 3.266 CNY (460,47 USD)/tấn, thấp nhất kể từ 2/4/2019. Trái lại, thép cuộn cán nóng hồi phục và tăng 0,2% vào cuối phiên, đạt 3.563 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương đều tăng và chạm mức cao nhất 1 tuần trong phiên vừa qua bởi lo ngại sương giá có thể gây ảnh hưởng tới những diện tích ngô trồng muộn ở Mỹ. Bên cạnh đó, các thương gia cũng đang tích cực mua vào sau khi giá giảm gần đây và trước kỳ nghỉ 3 ngày sắp tới (cuối tuần + Lễ Lao động).
Trên sàn Chicago, giá ngô tăng khá mạnh vào đầu phiên, và kết thúc ở mức 3,71-1/4 USD/bushel, trong khi đậu tương tăng 0,3% lên 8,68-1/2 USD/bushel.
Ủy ban Ngũ cốc Quốc tế (IGC) ngày 29/8/2019 đã nâng dự báo về sản lượng ngô toàn cầu niên vụ 2019/20 thêm 8 triệu tấn lên 1,1 tỷ tấn, chủ yếu bởi lạc quan hơn về triển vọng sản lượng của Mỹ. Theo IGC, Mỹ sẽ thu hoạch 341,5 triệu tấn ngô, cao hơn mức 333,5 triệu tấn dự báo trước đây, nhưng vẫn thấp hơn mức 366,3 triệu tấn sản lượng của vụ trước, và cũng thấp hơn con số 353,1 triệu tấn do Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 2,3 US cent tương đương 2,4% xuống 95,25 US cent/lb, nguyên nhân do đồng real Brazil yếu đi; trong khi robusta giao tháng 11/2019 giảm 26 USD tương đương 1,9% xuống 1.325 USD/tấn. Nguồn cung cao cũng đang gây áp lực lên thị trường cà phê. Tuy nhiên, Commerzbank dự báo triển vọng nguồn cung sẽ thắt chặt hơn.
Giao dịch cà phê ở Việt Nam tuần này chậm và giá không thay đổi so với tuần trước, trong khi nguồn cung ở Indonesia vẫn vững mặc dù đã vào cuối vụ thu hoạch.
Cà phê robusta Việt Nam loại 2 (5% đen, vỡ) có giá cộng 250 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn London, so với mức cộng 220 – 250 USD/tấn của tuần trước. Xuất khẩu cà phê Việt Nam dự báo sẽ giảm 10,3% trong 8 tháng đầu 2019 so với cùng kỳ năm trước, chỉ đạt 1,19 triệu tấn, tương đương 19,8 triệu bao loại 60 kg. Trong nước, cà phê nhân xô được bán ở Tây Nguyên với giá 35.000 đồng (1,51 USD)/kg, không thay đổi so với tuần trước. Những nông dân còn hàng có xu hướng giữ lại khi giá xuống thấp như hiện nay. Tuy nhiên, đa số họ đã bán gần hết sản lượng cà phê của mình.
Tại Indonesia, cà phê robusta ở Sumatra được chào giá cộng 150 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2019 của sàn London, cũng không thay đổi so với tuần trước. Sumatra thu hoạch cà phê từ giữa năm và sẽ kết thúc vào tháng 8 hoặc tháng 9.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
56,71
|
+0,93
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
61,08
|
+0,59
|
+0,98%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
37.060,00
|
+580,00
|
+1,59%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,29
|
-0,01
|
-0,35%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
168,47
|
+0,23
|
+0,14%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
186,40
|
+1,30
|
+0,70%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
571,75
|
+2,25
|
+0,40%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
54.670,00
|
+310,00
|
+0,57%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.536,50
|
-0,40
|
-0,03%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.216,00
|
-29,00
|
-0,55%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
18,32
|
-0,01
|
-0,04%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
62,30
|
-0,20
|
-0,32%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
918,82
|
+1,72
|
+0,19%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.475,46
|
-0,14
|
-0,01%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
257,80
|
+0,05
|
+0,02%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.726,50
|
+36,50
|
+0,64%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.753,00
|
+7,00
|
+0,40%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.269,00
|
+12,00
|
+0,53%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
15.795,00
|
+45,00
|
+0,29%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
371,25
|
+0,25
|
+0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
472,75
|
-2,50
|
-0,53%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
270,25
|
+5,50
|
+2,08%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,86
|
+0,21
|
+1,80%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
868,50
|
+2,75
|
+0,32%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
298,00
|
-1,70
|
-0,57%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,58
|
+0,13
|
+0,46%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
447,50
|
-0,40
|
-0,09%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.185,00
|
-58,00
|
-2,59%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
95,25
|
-2,30
|
-2,36%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,21
|
-0,16
|
-1,41%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
108,00
|
+3,15
|
+3,00%
|
Bông
|
US cent/lb
|
59,00
|
+0,27
|
+0,46%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
373,20
|
-6,10
|
-1,61%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
161,60
|
+2,00
|
+1,25%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,36
|
+0,01
|
+0,82%
|
Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters