Trên thị trường năng lượng, giá dầu không biến động nhiều giữa bối cảnh chứng khoán sụt giảm xuống mức thấp nhất gần 2 tháng do số liệu kinh tế kém khả quan.
Kết thúc phiên, dầu ngọt nhẹ Mỹ giảm 19 US cent xuống 52,45 USD/thùng, trong khi dầu Brent Biển Bắc tăng 2 US cent lên 57,71 USD/thùng.
Trong phiên, có lúc giá cả hai loại đều giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu tháng 8/2019, sau khi các số liệu kinh tế kém khả quan của Mỹ được công bố. Lĩnh vực dịch vụ của Mỹ tháng 9/2019 đã ghi nhận mức tăng trưởng thấp nhất trong ba năm và tăng trưởng việc làm trong lĩnh vực này cũng xuống mức thấp nhất trong 5 năm. Trong khi đó, tăng trưởng kinh doanh ở Khu vực sử dụng đồng tiền chung euro (Eurozone) cũng chững lại trong tháng 9/2019.
Ông Bob Yawger, giám đốc của công ty Mizuho ở New York, cho biết lượng dầu dự trữ thể hiện mặt cung, còn số liệu kinh tế phản ánh nhu cầu, và cả hai khía cạnh này đều đang trong tình trạng không được tốt.
Tuy nhiên, giá dầu cũng được hỗ trợ phần nào bởi những kỳ vọng rằng Mỹ và Trung Quốc có thể đạt được tiến triển trong việc giải quyết căng thẳng thương mại song phương.
Trong năm nay, giá dầu Brent đã tăng khoảng 7% nhờ thỏa thuận cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh như Nga, giữa bối cảnh xuất khẩu dầu của Iran và Venezuela sụt giảm do các lệnh trừng phạt của Mỹ.
Tuy nhiên, lo ngại về triển vọng kinh tế ngày càng ảm đạm đã lấn át những lực đẩy từ phía cung, trong khi khả năng gián đoạn sản lượng tại Trung Đông dường như không khiến giới đầu tư quá lo ngại.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 1% lên mức cao nhất trong một tuần do số liệu kém khả quan của Mỹ làm gia tăng lo ngại về tăng trưởng kinh tế và các đồn đoán về khả năng Fed cắt giảm lãi suất.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.506,45 USD/ounce, sau khi có thời điểm chạm mức cao nhất kể từ ngày 25/9 là 1.518,50 USD/ounce. Trong khi đó, giá vàng kỳ hạn tăng 0,4% và khép phiên ở mức 1.513,80 USD/ounce.
Ông David Meger, người đứng đầu bộ phận giao dịch kim loại của công ty High Ridge Futures, cho rằng một loạt các số liệu kinh tế yếu đi đã làm gia tăng những lo ngại về tăng trưởng kinh tế, qua đó thúc đẩy nhu cầu đối với các loại tài sản an toàn như vàng. Ông cho rằng số liệu này cũng mở ra khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) hạ lãi suất vào cuối tháng Mười, vốn là một diễn biến sẽ có lợi cho giá vàng.
Bên cạnh đó, bối cảnh kinh tế càng trở nên bất ổn sau khi Washington ngày 3/10 cho biết sẽ đánh thuế nhiều sản phẩm nhập khẩu từ Liên minh châu Âu (EU).
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim tăng 0,2% lên 888,59 USD/ounce, trong khi giá bạc tăng 0,3% lên 17,60 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm trong 4 phiên liên tiếp sau khi Mỹ công bố thuế quan đối với một số hàng hóa châu Âu và lo ngại suy giảm kinh tế toàn cầu sẽ làm giảm nhu cầu tiêu thụ đồng trong khi nguồn cung dồi dào. Tồn kho đồng tại LME đã tăng lên 195.425 tấn, cao nhất kể từ 20/9.
Chốt phiên, giá đồng kỳ hạn 3 tháng tại LME giảm 0,3% còn 5.661 USD/tấn. Giá thiếc cũng giảm 0,5% xuống 16.475 USD. Trong khi giá nhôm tăng 0,7% đạt 1.718 USD/tấn sau khi có lúc chạm mức 1.704,85 USD, thấp nhất kể từ tháng 1/2017 trong phiên liền trước. Giá nickel tăng 0,8% đạt 17.625 USD/tấn, chì tăng 1,4% lên 2.129 USD.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô trên sàn Chicago giảm nhẹ do hoạt động bán ra. Chốt phiên, đường thô giao tháng 3/2020 giảm 0,15 cent, tương đương 1,16%, xuống còn 12,74 cent/lb; đường trắng giao tháng 12/2019 giảm 2,4 USD, tương đương 0,7%, còn 340,6 USD/tấn.
Cà phê tăng giá trong cùng phiên, robusta kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn London tăng 8 USD, tương đương 0,6%, đạt 1.312 USD/tấn; arabica kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn New York tăng 1,45 cent, hay 1,4% đạt 1,0205 USD/lb.
Tại Châu Á, giá cà phê Việt Nam tuần này giảm, trong khi cà phê Indonesia tăng.
Người trồng cà phê ở Tây Nguyên bán cà phê nhân xô với giá 34.000 đồng (1,47 USD)/kg, giảm nhẹ so với tuần trước. Trong khi đó, các thương nhân chào bán robusta loại 5% đen, vỡ (loại 2) với giá cộng 180- 200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2019 ở phiên liền trước trên sàn London, không đổi so với tuần trước.
Tại Lumpung, Indonesia, cà phê robusta được chào giá cộng 210-215 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2019 của phiên liền trước trên sàn London, tăng nhẹ so với mức 200 USD vào tuần trước.
Đối với mặt hàng ngũ cốc, giá đậu tương tại Mỹ chốt phiên giảm nhẹ do hoạt động bán kỹ thuật. Đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn Chicago chốt phiên giảm 2 US cent còn 9,11-3/4 USD/bushel sau khi có lúc đạt mức cao 9,18-1/2 USD/bushel, chỉ thấp hơn 1-1/2 cent so với mức cao đạt được hôm thứ Ba tuần này.
USDA cho biết Mỹ đã bán thêm 252.000 tấn đậu tương cho Trung Quốc. Doanh số xuất khẩu đậu tương của Mỹ đạt 2,08 triệu tấn trong tuần kết thúc vào tháng 26/9.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giảm phiên thứ 7 liên tiếp do lo ngại nhu cầu chậm lại sau khi Mỹ công bố thuế nhập khẩu mới đối với các sản phẩm từ Liên minh châu Âu và hoạt động bán ra nhiều. Giá cao su giao tháng 3/2020 giảm 0,5 JPY còn 155,6 JPY(1,45 USD)/kg, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 26/11 là 154,3 JPU trong phiên liền trước. Tại Singapore, giá cao su giao tháng 11/2019 giảm 0,6% còn 124,4 US cent/kg.
Ngày 3/10/2019, Mỹ cho biết sẽ áp thuế 10% đối với các máy bay Airbus của Châu Âu và thuế 25% đối với rượu vang Pháp, rượu whisky Scotland –Ailen và phô mai của toàn Châu Âu để trừng phạt việc EU trợ cấp bất hợp pháp cho sản xuất máy bay. Các quốc gia hỗ trợ Airbus như Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Anh sẽ chịu tác động chính từ các biện pháp này.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

52,45

-0,19

Dầu Brent

USD/thùng

57,71

+0,02

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.310,00

+80,00

+0,23%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,35

+0,02

+0,82%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

155,74

+0,15

+0,10%

Dầu đốt

US cent/gallon

188,60

+1,00

+0,53%

Dầu khí

USD/tấn

575,00

+8,75

+1,55%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

53.280,00

+300,00

+0,57%

Vàng New York

USD/ounce

1.513,40

-0,40

-0,03%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.170,00

+7,00

+0,14%

Bạc New York

USD/ounce

17,67

-0,01

-0,06%

Bạc TOCOM

JPY/g

60,60

-0,50

-0,82%

Bạch kim

USD/ounce

889,34

+0,70

+0,08%

Palađi

USD/ounce

1.662,31

+3,57

+0,22%

Đồng New York

US cent/lb

255,60

+0,25

+0,10%

Đồng LME

USD/tấn

5.662,00

-16,00

-0,28%

Nhôm LME

USD/tấn

1.718,00

+13,00

+0,76%

Kẽm LME

USD/tấn

2.295,00

-23,00

-0,99%

Thiếc LME

USD/tấn

16.475,00

-75,00

-0,45%

Ngô

US cent/bushel

387,50

-1,25

-0,32%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

489,25

+0,50

+0,10%

Lúa mạch

US cent/bushel

285,75

-1,25

-0,44%

Gạo thô

USD/cwt

11,73

+0,01

+0,09%

Đậu tương

US cent/bushel

911,25

-0,50

-0,05%

Khô đậu tương

USD/tấn

303,10

+0,20

+0,07%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,80

-0,09

-0,30%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

459,20

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.520,00

+38,00

+1,53%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

102,05

+1,45

+1,44%

Đường thô

US cent/lb

12,74

-0,15

-1,16%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

99,90

+0,80

+0,81%

Bông

US cent/lb

61,87

+0,27

+0,44%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

364,20

+4,40

+1,22%

Cao su TOCOM

JPY/kg

155,10

-0,50

-0,32%

Ethanol CME

USD/gallon

1,42

+0,00

+0,07%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg