Trên thị trường năng lượng, giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng hơn 3% lên cao nhất 7 tuần do dự báo thời tiết ấm hơn và nhu cầu làm mát trong tuần tới cao hơn so với dự báo trước đó.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn New York tăng 7,3 US cent tương đương 3,2% lên 2,358 USD/mmBTU, cao nhất kể từ ngày 15/7/2019.
Giá dầu thô giảm sau khi Mỹ công bố số liệu cho thấy ngành chế tạo trong nước giảm lần đầu tiên trong 3 năm qua.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,16 USD tương đương 2,1% xuống 53,94 USD/thùng, trong phiên có lúc chạm 52,84 USD/thùng, thấp nhất kể từ ngày 9/8/2019; dầu thô Brent giảm 40 US cent tương đương 0,7% xuống 58,26 USD/thùng, trong phiên có lúc chạm 57,23 USD/thùng, thấp nhất kể từ ngày 9/8/2019.
Tính từ đầu năm đến nay, giá dầu giảm khoảng 20% kể từ mức cao đỉnh điểm năm 2019 trong tháng 4/2019, do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thương mại khiến nhu cầu dầu giảm.
Hoạt động của ngành chế tạo Mỹ trong tháng 8/2019 đã sụt giảm lần đầu tiên trong ba năm qua. Trước đó, hoạt động của ngành chế tạo Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) trong tháng 8/2019 đã giảm tháng thứ bảy. Theo chuyên gia John Kilduff cộng tác với Again Capital tại New York, sự suy giảm này tiếp tục tác động tiêu cực tới triển vọng tăng trưởng nhu cầu dầu.

Trong khi đó, số liệu của Ngân hàng trung ương Hàn Quốc cho thấy, kinh tế nước này tăng trưởng thấp hơn dự kiến trong quý II/2019, khi xuất khẩu được điều chỉnh giảm do tranh cãi thương mại Mỹ-Trung kéo dài. Động thái của mới đây của Argentina trong việc kiểm soát vốn cũng cho thấy rủi ro của các thị trường mới nổi.

Ngày 3/9/2019, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết các cuộc đàm phán thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đang diễn ra tốt đẹp, song ông vẫn cảnh báo rằng Washington sẽ "cứng rắn hơn" trong đàm phán nếu Bắc Kinh kéo dài đàm phán cho đến nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của ông.
Cùng ngày, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lưu Hạc tuyên bố nước này kiên quyết phản đối cuộc chiến thương mại do không có lợi cho Bắc Kinh, Mỹ và cả thế giới. Ông Lưu Hạc, nhà đàm phán thương mại hàng đầu của Trung Quốc, đã đưa ra tuyên bố trên khi gặp Thượng nghị sĩ Mỹ Steve Daines - đồng chủ tịch Nhóm chuyên viên Mỹ-Trung của Thượng viện Mỹ và Thượng nghị sĩ David Perdue. Ông Lưu Hạc cho hay Trung Quốc hy vọng hai bên tìm được điểm chung trong khi gác lại bất đồng và có thể giải quyết một cách thỏa đáng vấn đề trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
Trong tuần này, Mỹ đã áp mức thuế 15% lên nhiều mặt hàng của Trung Quốc và Trung Quốc bắt đầu áp mức thuế mới lên 75 tỷ USD hàng hóa của Mỹ, làm leo thang cuộc chiến thương mại kéo dài trong hơn một năm qua. Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết, hai bên sẽ vẫn tiến hành đàm phán trong tháng này.
 Nhà phân tích thị trường tại OANDA, Jeffrey Halley, cho rằng giá dầu sẽ khó tăng mạnh trong tuần này khi không có tiến triển trong các cuộc đàm phán thương mại, số liệu từ các nền kinh tế châu Á yếu và OPEC không đưa ra được giải pháp nhằm kiểm soát sản lượng.
Sản lượng của OPEC trong tháng Tám tăng lần đầu tiên trong năm nay, khi nguồn cung gia tăng từ Iraq và Nigeria vượt mức giảm của nước dẫn đầu là Saudi Arabia và những thiệt hại đối với Iran do các biện pháp trừng phạt của Mỹ.
OPEC, Nga và các nước khác nằm ngoài tổ chức này hồi tháng 12 năm ngoái đã đạt thỏa thuận cắt giảm sản lượng 1,2 triệu thùng/ngày từ ngày 1/1/2019. Phần cắt giảm của OPEC là 800.000 thùng/ngày sẽ được áp dụng với 11 thành viên, trừ Iran, Libya và Venezuela.
Số liệu mới công bố cho thấy sản lượng của Nga trong tháng Tám tăng lên 11,294 triệu thùng/ngày, vượt mức cam kết theo thỏa thuận trên và là cao nhất kể từ tháng Ba.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng. Vàng giao ngay tăng 1% lên 1.546,30 USD/ounce, gần sát mức cao nhất trong 6 năm qua là 1.554,56 USD/ounce; vàng giao sau tăng 1,7% lên 1.555,90 USD/ounce.
Những bất ổn trong quan hệ thương mại Mỹ-Trung và tiến trình Anh rời Liên minh châu Âu (EU), còn gọi là Brexit, tiếp tục thu hút dòng vốn đầu tư vào kim loại quý này.
Theo nhà chiến lược hàng hóa Ryan McKay của TD Securities, số liệu yếu kém của ngành chế tạo Mỹ sẽ tiếp tục củng cố nhận định cho rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cần quyết liệt hơn trong vấn đề cắt giảm lãi suất. Chuyên gia này cho rằng giá vàng hiện nhận được sự hỗ trợ từ tình trạng bất ổn liên quan tới tiến trình Brexit không suôn sẻ, bất ổn chính trị tại Italy, biểu tình tại Hong Kong (Trung Quốc).
Ngoài ra, giá vàng cũng không còn chịu nhiều sức ép từ đồng USD như lúc đầu phiên giao dịch khi đồng USD tiếp tục tăng giá so với các đồng tiền khác. Theo chiến lược gia hàng hóa kỳ cựu Phillip Streible của RJO Futures, đồng USD cũng đang được coi là một tài sản an toàn.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 3,7% và phá mốc 19 USD/ounce lần đầu tiên kể từ tháng 10/2016, lên 19,14 USD/ounce. Trong khi đó, giá bạch kim tăng 2,3% lên 951,35 USD/ounce sau khi có lúc lên tới 956,99 USD/ounce, mức cao nhất kể từ tháng 3/2018 còn giá palladium tăng 0,2% lên 1.533,70 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nickel tăng lên mức cao nhất 5 năm sau khi Indonesia dấy lên mối lo ngại về thiếu hụt nguồn cung bằng cách cấm xuất khẩu quặng từ tháng 1/2020.
Giá nickel kỳ hạn trên sàn London giảm 0,4% xuống 17.985 USD/tấn, song vẫn cao nhất kể từ tháng 9/2014. Tuy nhiên, kể từ tháng 7/2019 đến nay giá nickel đã tăng 10% và tăng gần 70% trong năm nay.
Indonesia – nước sản xuất quặng nickel lớn nhất thế giới – đã đưa ra kế hoạch cấm xuất khẩu trong 2 năm, để khuyến khích các công ty khai thác quặng chế biến kim loại địa phương.
BMO dự báo sẽ thiếu hụt 51.000 tấn nickel vào năm 2020 và và 127.000 tấn năm 2021, trong khi công suất trên thị trường nickel đạt khoảng 14 triệu tấn mỗi năm. Trong khi đó, kẽm giảm 1,7% xuống 2.205 USD/tấn, thấp nhất 3 năm.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng hơn 4%, phiên tăng thứ 4 liên tiếp do các nhà máy thép bổ sung dự trữ nguyên liệu ngay cả khi các thành phố sản xuất thép hàng đầu thực hiện các hạn chế chống ô nhiễm môi trường.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên tăng 4,2% lên 644 CNY (90,8 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung trong tháng 8/2019, giá quặng sắt giảm hơn 21%, tháng giảm mạnh nhất kể từ tháng 3/2018.
Đồng thời, giá thép cây kỳ hạn trên sàn Thượng Hải tăng 1% lên 3.403 CNY/tấn. Giá thép cuộn cán nóng trên sàn Thượng Hải tăng 1,2% lên 3.454 CNY/tấn.
Trong khi đó, Fitch Solutions điều chỉnh giảm dự báo giá thép toàn cầu trong năm 2019 xuống 600 USD/tấn do căng thẳng thương mại Mỹ - Trung kéo dài và rủi ro đối với nền kinh tế toàn cầu gia tăng gây áp lực giá.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn ICE giảm 1,3 US cent tương đương 1,34% xuống 95,55 US cent/lb, trong phiên có lúc chạm 94,2 US cent/lb, thấp nhất kể từ ngày 20/8/2019. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn ICE giảm 25 USD tương đương 1,88% xuống 1.304 USD/tấn.
Giá đường tăng do hoạt động mua vào đã giúp thị trường hồi phục trở lại từ mức giảm gần 10% trong tháng trước đó, trong khi giá cà phê Arabica chạm thấp nhất 2 tuần.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn ICE tăng 0,05 US cent tương đương 0,45% lên 11,19 US cent/lb. Trong tháng 8/2019, giá đường giảm 8,8%, tháng giảm mạnh nhất trong hơn 1 năm. Trong khi đó, giá đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE giảm 0,5 USD tương đương 0,12% xuống 304,4 USD/tấn.
Giá lúa mì mềm đỏ, vụ đông tại Chicago giảm xuống mức thấp nhất 3 tháng, trong khi giá lúa mì cứng chạm thấp nhất 1 thập kỷ, do nguồn cung toàn cầu dồi dào và cạnh tranh xuất khẩu mạnh.
Giá lúa mì mềm đỏ, vụ đông kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn Chicago giảm 9 US cent xuống 4,53-1/2 USD/bushel. Giá lúa mì cứng đỏ vụ đông kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn Chicago giảm xuống 3,61-3/4 USD/bushel, thấp nhất kể từ tháng 12/2005.
Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn Chicago giảm 8-3/4 US cent xuống 3,61 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 3,6-1/2 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn Chicago giảm 1/2 US cent xuống 8,68-1/2 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia đảo chiều giảm do giá dầu đậu tương trên sàn Chicago suy giảm.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn Bursa Malaysia giảm 1% xuống 2.212 ringgit (527,92 USD)/tấn, giảm phiên thứ 3 liên tiếp trong 5 phiên.
Giá cao su tại Tokyo giảm do lo ngại nền kinh tế toàn cầu chậm lại trong bối cảnh căng thẳng Mỹ - Trung leo thang. Trên sàn TOCOM, giá cao su kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 0,8 JPY (0,0076 USD) xuống 162,1 JPY/kg. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 3/2020 ở mức 141 JPY/kg. Trong khi đó, trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 140 CNY (19,74 USD) lên 11.935 CNY/tấn. Giá cao su TSR20 tăng 60 CNY lên 10.135 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

52,84

-1,16

-2,1%

Dầu Brent

USD/thùng

58,26

-0,40

-0,7%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.350,00

-320,00

-0,90%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,35

-0,01

-0,51%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

147,27

+0,22

+0,15%

Dầu đốt

US cent/gallon

180,62

+0,29

+0,16%

Dầu khí

USD/tấn

554,75

+3,75

+0,68%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

53.290,00

-550,00

-1,02%

Vàng New York

USD/ounce

1.556,70

+0,80

+0,05%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.257,00

+59,00

+1,14%

Bạc New York

USD/ounce

19,57

+0,33

+1,71%

Bạc TOCOM

JPY/g

66,10

+3,00

+4,75%

Bạch kim

USD/ounce

961,75

+3,29

+0,34%

Palađi

USD/ounce

1.544,47

+1,23

+0,08%

Đồng New York

US cent/lb

253,70

+0,90

+0,36%

Đồng LME

USD/tấn

5.610,00

-10,00

-0,18%

Nhôm LME

USD/tấn

1.753,00

+4,00

+0,23%

Kẽm LME

USD/tấn

2.205,00

-39,00

-1,74%

Thiếc LME

USD/tấn

16.710,00

-90,00

-0,54%

Ngô

US cent/bushel

361,75

+0,75

+0,21%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

457,50

+4,00

+0,88%

Lúa mạch

US cent/bushel

265,25

-3,75

-1,39%

Gạo thô

USD/cwt

11,98

+0,01

+0,04%

Đậu tương

US cent/bushel

867,75

-0,75

-0,09%

Khô đậu tương

USD/tấn

294,80

+0,70

+0,24%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,97

-0,12

-0,41%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

447,10

-0,40

-0,09%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.245,00

+23,00

+1,04%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

95,55

-1,30

-1,34%

Đường thô

US cent/lb

11,19

+0,05

+0,45%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

100,20

-3,55

-3,42%

Bông

US cent/lb

58,01

+0,15

+0,26%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

368,90

-2,10

-0,57%

Cao su TOCOM

JPY/kg

164,00

+1,90

+1,17%

Ethanol CME

USD/gallon

1,32

-0,04

-2,80%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters