Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do thị trường lạc quan về tình hình đàm phán thương mại Mỹ - Trung và triển vọng nhu cầu dầu thô cải thiện giữa bối cảnh thị trường việc làm Mỹ tăng trưởng mạnh hơn dự kiến.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 44 US cent (0,7%) lên 62,13 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 34 US cent (0,6%) lên 56,54 USD/thùng.
Sự lạc quan của thị trường về tiến độ các cuộc đàm phán thương mại Mỹ-Trung đã đẩy các chỉ số chứng khoán Mỹ lên mức cao kỷ lục trong phiên 4/11, qua đó góp phần đẩy giá dầu tăng lên.
Ngày 4/11, Trung Quốc cho hay Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ tiếp tục trao đổi thông qua nhiều cách thức khác nhau để tiến tới việc ký kết thỏa thuận thương mại "giai đoạn 1" giữa hai nước.
Tăng trưởng việc làm tháng 10 của Mỹ được cải thiện cũng làm dịu những lo ngại rằng tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại sẽ làm giảm nhu cầu dầu. Theo Bộ Lao động Mỹ, trong tháng 10/2019, số việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp đã tăng 128.000 việc, cao hơn mức dự báo tăng 89.000 việc làm mà các nhà kinh tế thuộc hãng tin Reuters đưa ra.
Quyết định hạ lãi suất mới đây của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và sự suy yếu gần đây của đồng bạc xanh cũng góp phần hỗ trợ cho giá dầu.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do số liệu lạc quan về kinh tế Mỹ cũng như về tiến triển đàm phán thương mại Mỹ - Trung khiến nhà đầu tư tìm đến những tài sản mang tính rủi ro hơn.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 1.507,71 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2019 ở mức 1.511,10 USD/ounce.
Bart Melek, chuyên gia thuộc TD Securities tại Toronto (Canada), cho rằng trong ngắn hạn, nhu cầu vàng như tài sản an toàn sẽ giảm sút khi chứng khoán phố Wall cao kỷ lục.
Tuần trước, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã hạ lãi suất lần thứ ba trong năm nay, song đánh đi tín hiệu sẽ không có thêm đợi cắt giảm nào nữa cho đến khi nền kinh tế thoát khỏi tình trạng tồi tệ hiện nay.
Tại châu Âu, tân Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde đã có bài phát biểu đầu tiên trên cương vị mới vào ngày 4/11. Các thị trường hy vọng bà sẽ tiếp tục duy trì chính sách mà người tiềm nhiệm Mario Draghi đã thực hiện trong suốt thời gian qua.
Về những kim loại quý khác, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 18,04 USD/ounce; bạch kim giao ngay giảm 1,2% xuống 934,75 USD/ounce sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 25/9 là 955,75 USD/ounce; palađi giảm 1,5% xuống 1.777,93 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng và nhôm tăng bởi hy vọng cuộc xung đột thương mại kéo dài giữa Mỹ và Trung Quốc sớm được giải quyết và số liệu sản xuất lạc quan từ Trung Quốc. Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) đóng cửa phiên giao dịch tăng 0,5% lên 5.877 USD/tấn, sau khi tăng 1% trong phiên liền trước; nhôm tăng 1,6% lên 1.815 USD/tấn, trong phiên có lúc giá chạm mức cao nhất kể từ ngày 20/9 tại 1.793 USD/tấn. Giá nhôm đã giảm 3,6% trong năm nay, chạm mức 1.704,85 USD/tấn trong tháng 10, thấp nhất kể từ tháng 1/2017.
Sản lượng nhôm của Trung Quốc trong tháng 9/2019 giảm 1,6% so với tháng 9/2018 bởi 2 nhà máy luyệnnhôm tiếp tục dừng hoạt động. Lượng nhôm lưu kho trên sàn LME giảm xuống 788.475 tấn, thấp nhất trong hơn 1 tháng. Malaysia sẽ cung cấp trở lại giấy phép khai thác bauxite nhôm trong tháng 12/2019 hoặc tháng 1/2020, đánh dấu việc khôi phục hoạt động sau lệnh cấm được áp đặt trong năm 2016.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm sau khi công ty khai mỏ Vale SA được chấp thuận khôi phục hoạt động tại một mỏ lớn ở Brazil. Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên giảm 1,1% xuống 615 CNY (87,56 USD)/tấn, mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 22/10. Trên sàn giao dịch Singapore, quặng sắt kỳ hạn tháng 11/2019 giảm 1,9% xuống 82,60 USD/tấn.
Thép cây trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đóng cửa tăng 0,5%, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,2%.
Vale, công ty khai thác quặng sắt lớn nhất thế giới cho biết nhà điều hành ANM của Brazil đã cho phép họ khôi phục hoạt động tại mỏ Alegria - nơi đã bị dừng từ tháng 3/2018. Xuất khẩu quặng sắt của Brazil trong tháng 10 đạt 31,2 triệu tấn so với 27,14 triệu tấn trong tháng liền trước.
Tháng 7/2019, những lo ngại về nguồn cung thắt chặt sau vụ vỡ đập và việc đóng cửa đập của Vale để kiểm tra an toàn, cùng với những vấn đề vận hành cũng ảnh hưởng tới các công ty khai mỏ tại Australia, thúc đẩy giá quặng sắt tăng tăng lên mức cao kỷ lục 5 năm. Kể từ đó giá giảm do nguồn cung dần trở lại bình thường. Lượng quặng sắt nhập khẩu lưu tại các cảng của Trung Quốc cuối tháng 10/2019 đã lên mức cao nhất 6 tháng. Ngày 1/11/2019, lượng quặng nhập khẩu lưu tại các cảng này là 131,65 triệu tấn, giảm so với 134,1 triệu tấn một tuần trước đó, là lần giảm đầu tiên sau 5 tuần tăng.
Andrew Driscoll, giám đốc nghiên cứu của CLSA dự báo giá quặng sắt sẽ ở mức trung bình 90 USD/tấn trong quý 4/2019, sau đó giảm xuống 70 USD/tấn vào năm 2020.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2019 tăng lên 106,79 US cent/lb, đạt mức cao nhất trong 3 tháng; robusta kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 10 USD, tương đương 0,8%, xuống còn 1.312 USD/tấn.
Brazil đã xuất khẩu 3,15 triệu bao cà phê (60 kg/bao) trong tháng 10, giảm so với 3,28 triệu bao một năm trước. Cũng trong tháng 10, xuất khẩu cà phê của Costa Rica giảm 57,8%, trong khi xuất khẩu cà phê của Honduras đã giảm 12,2%.
Commerzbank cho biết nguồn cung arabica từ các nước xuất khẩu lớn trong tháng 10 vẫn yếu, sau khi xuất khẩu cà phê toàn cầu giảm 3% trong tháng 9.
Giá đường cũng tăng do dự báo nguồn cung thiếu hụt trong niên vụ 2019/20. Đường thô kỳ hạn tháng 3/2019 tăng 0,04 US cent, tương đương 0,3% lên 12,53 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 3,60 USD, tương đương 1,1%, lên 343,70 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,54

+0,34

+0,6%

Dầu Brent

USD/thùng

62,13

+0,44

+0,7%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.350,00

+1.610,00

+4,38%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,83

+0,01

+0,28%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

166,45

+0,08

+0,05%

Dầu đốt

US cent/gallon

193,98

-0,07

-0,04%

Dầu khí

USD/tấn

589,00

-5,00

-0,84%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.300,00

+1.590,00

+2,96%

Vàng New York

USD/ounce

1.509,40

-1,70

-0,11%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.254,00

+25,00

+0,48%

Bạc New York

USD/ounce

18,04

-0,03

-0,17%

Bạc TOCOM

JPY/g

63,00

+0,30

+0,48%

Bạch kim

USD/ounce

935,60

-0,90

-0,10%

Palađi

USD/ounce

1.783,65

+3,00

+0,17%

Đồng New York

US cent/lb

266,80

-0,30

-0,11%

Đồng LME

USD/tấn

5.877,00

+27,00

+0,46%

Nhôm LME

USD/tấn

1.815,00

+29,00

+1,62%

Kẽm LME

USD/tấn

2.539,00

+19,00

+0,75%

Thiếc LME

USD/tấn

16.425,00

-100,00

-0,61%

Ngô

US cent/bushel

383,50

+0,25

+0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

510,00

+0,25

+0,05%

Lúa mạch

US cent/bushel

298,00

+0,25

+0,08%

Gạo thô

USD/cwt

11,85

-0,13

-1,13%

Đậu tương

US cent/bushel

938,50

+0,50

+0,05%

Khô đậu tương

USD/tấn

302,60

+0,20

+0,07%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,81

-0,06

-0,19%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

461,30

-0,90

-0,19%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.506,00

+5,00

+0,20%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

103,65

-0,35

-0,34%

Đường thô

US cent/lb

12,51

+0,03

+0,24%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

99,55

+0,45

+0,45%

Bông

US cent/lb

63,66

-0,57

-0,89%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

417,40

+4,60

+1,11%

Cao su TOCOM

JPY/kg

174,40

+2,30

+1,34%

Ethanol CME

USD/gallon

1,41

-0,04

-2,48%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg