Năng lượng: Giá dầu Brent giảm, WTI tăng
Phiên giao dịch cuối cùng của tháng 10/2019 (kết thúc vào rạng sáng 1/11/2019 giờ VN), giá dầu thô trên thị trường quốc tế sụt giảm sau số liệu bi quan về hoạt động chế tạo của Trung Quốc.
Kết thúc phiên này, dầu Brent giảm 38 US cent (0,6%) xuống 60,23 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ (WTI) giảm 88 US cent (1,6%) xuống 54,18 USD/thùng.
Tính trong tháng 10/2019, giá dầu Brent giảm gần 1%, trong khi dầu WTI tăng gần 1%.
Đường ống dẫn dầu Marketlink của TC Energy Corp từ kho cảng Cushing, Oklahoma đến Nederland, Texas (Mỹ) với công suất 750.000 thùng/ngày, đã giảm công suất hoạt động. Ngày 29/10/2019, đường ống Keystone của TC Energy phải tạm dừng hoạt động sau vụ rò rỉ tại North Dakota. Theo ước tính của nhà chức trách tại North Dakota, hơn 9.000 thùng dầu đã tràn ra khỏi đường ống Keystone sau vụ rò rỉ được phát hiện vào cuối ngày 29/10.
Ông Andy Lipow, Chủ tịch của Lipow Oil Associates tại Houston, cho biết, sự gián đoạn hoạt động của Keystone sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung ứng tại Cushing, trung tâm trung chuyển dầu chính của Mỹ. Bên cạnh đó, giá dầu WTI còn chịu áp lực trước sự sụt giảm công suất của đường ống dẫn dầu Marketlink.
Marketlink được kết nối với hệ thống đường ống dẫn dầu Keystone có công suất 590.000 thùng/ngày, nhằm vận chuyển dầu thô của Canada từ Alberta đến các nhà máy lọc dầu ở miền Trung Tây Mỹ và kho cảng Cushing.
Trong khi đó, hoạt động chế tạo của Trung Quốc tháng 10/2019 sụt giảm tháng thứ 6 liên tiếp, với mức giảm mạnh hơn dự kiến. Điều này cho thấy các nhà chế tạo tiếp tục đối mặt với sức ép giảm nhu cầu, giữa lúc nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tăng trưởng chậm lại xuống mức thấp nhất trong gần 30 năm qua. Các chuyên gia nhận định cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ đang đè nặng lên triển vọng nhu cầu dầu mỏ.
Một cuộc khảo sát của Reuters cho thấy giá dầu sẽ vẫn chịu sức ép trong năm nay và năm tới. Theo kết quả khảo sát, 51 nhà kinh tế dự báo giá dầu Brent sẽ ở mức trung bình 64,16 USD/thùng năm 2019 và 62,38 USD/thùng năm 2020.
Kim loại quý: Giá đồng loạt tăng trong tháng 10
Phiên cuối cùng của tháng 10/2019, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.496,94 USD/ounce, vàng giao tháng 12/2019 tăng 0,2% lên 1.499,70 USD/ounce. Nguyên nhân bởi đồng USD yếu đi sau khi Fed hạ lãi suất.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,3% lên 17,92 USD/ounce, trong khi bạch kim tăng 0,2% lên 927,13 USD/ounce và palađi tăng 0,4% lên 1.813 USD/ounce.
Tính chung cả tháng 10/2019, giá vàng tăng 2,39%, bạc tăng 5,14%, bạch kim tăng 6,51% và palađi tăng 8,77%.
Chỉ số đồng USD, thước đo giá trị đồng bạc xanh so với sáu đồng tiền chủ chốt, đã giảm 0,3% xuống 97,36, khiến vàng trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền khác.
Stephen Innes, nhà chiến lược về thị trường của trung tâm AxiTrader, cho rằng mặc dù giá vàng tăng do đồng USD yếu, nhưng nếu chứng khoán tiếp tục hoạt động tốt, thì giá vàng khó di chuyển lên trên mức kháng cự 1.510 USD/ounce.
Michael McCarthy, chiến lược gia hàng đầu về thị trường của CMC Markets, cho biết giá vàng có thể không duy trì được đà tăng hiện nay trong ngắn hạn khi các số liệu mới đây cho thấy kinh tế Mỹ đã ghi nhận mức tăng trưởng vừa phải.
Kim loại công nghiệp: Giá hầu hết giảm trong tháng 10
Phiên cuối tháng, giá đồng giảm sau khi Trung Quốc công bố số liệu sản xuất cho thấy thấp hơn so với dự kiến, làm dấy lên lo ngại về nhu cầu kim loại. Tính chung cả tháng 10/2019, giá đồng giảm 3,33%, nhôm giảm 1,15%, sắt giảm 10,75% và thép giảm 5,86%.
Chốt phiên này, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,9% - mức giảm mạnh nhất kể từ ngày 2/8/2019 - xuống 5.797 USD/tấn. Đối với các kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 0,3% xuống 1.755 USD/tấn, kẽm giảm 1,8% xuống 2.482,5 USD/tấn, chì giảm 2,2% xuống 2.160 USD/tấn (sau khi có lúc xuống mức thấp nhất 2 tuần), nickel giảm 0,8% xuống 16.645 USD/tấn và thiếc giảm 1,6% xuống 16.525 USD/tấn (sau khi có lúc xuống thấp nhất 3 tuần là 16.300 USD/tấn).
Xung đột thương mại với Mỹ kéo dài làm giảm tăng trưởng kinh tế Trung Quốc và gây áp lực đối với giá kim loại, có thể sẽ buộc Bắc Kinh phải sớm đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ kinh tế.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng 1,6% do nhu cầu tăng. Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên tăng 0,7% lên 621 CNY (88,25 USD)/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng phiên thứ 3 liên tiếp, thêm 0,5% lên 3.367 CNY/tấn; giá thép cuộn cán nóng kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 0,1% lên 3.351 CNY/tấn; thép không gỉ giảm 0,2% xuống 14.985 CNY/tấn.
Nông sản: Giá cà phê và cacao vững, đường giảm
Phiên cuối tháng 10, giá đường vững so với phiên trước bởi dự báo thị trường đường toàn cầu trong niên vụ này sẽ thiếu hụt. Đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn ICE tăng 0,07 US cent tương đương 0,6% lên 12,48 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn London giảm 2,2 USD tương đương 0,6% xuống 338,4 USD/tấn. Tính chung trong tháng 10/2019, giá đường giảm nhẹ trên 3%,
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn New York tăng 2,6 US cent tương đương 2,6% lên 101,95 US cent/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London tăng 31 USD tương đương 2,4% lên 1.322 USD/tấn. Trong tháng 10/2019, giá cà phê gần như không thay đổi.
Tại Châu Á, giá cà phê Việt Nam tuần này tiếp tục tăng do nguồn cung thắt chặt, trong khi những trận mưa lớn gần đây tại khu vực trồng cà phê lớn nhất của nước ta có thể không gây hại cho cây trồng. Tại Tây Nguyên, cà phê nhân xô được bán với giá 31.800-32.600 VND (1,37-1,41 USD)/kg, tăng nhẹ so với 31.000-31.500 VND/kg cách đây 1 tuần; cà phê loại 2 xuất khẩu (5% đen, vỡ) chào giá cộng 80-100 USD/tấn so với kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London, thấp hơn mức +100 đến +120 USD/tấn của tuần trước. Cà phê loại 4 xuất khẩu của Indonesia (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 270 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London, tăng so với +260 USD/tấn cách đây một tuần.
Đối với nhóm ngũ cốc, giá ngô tại Mỹ giảm do dự kiến điều kiện thời tiết thuận lợi cho vụ thu hoạch. Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,3% xuống 3,9 USD/bushel; lúa mì kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,5% xuống 5,08-3/4 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 5,01 USD/bushel, thấp nhất 3 tuần; trong khi đó đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 tăng 0,1% lên 9,32-1/4 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng trở lại lên mức cao nhất hơn 19 tháng. Hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Bursa (Malaysia) tăng 0,6% lên 2.512 ringgit (601,68 USD)/tấn, cao nhất kể từ ngày 2/3/2018.
Giá cao su tiếp tục xu hướng tăng. Trên sàn TOCOM, cao su kỳ hạn tháng 4/2020 tăng 1,5 JPY (0,0138 USD) lên 174,5 JPY/kg, trong khi loại TSR20 giao cùng kỳ hạn ở mức 148,9 JPY/kg. Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 145 CNY (20,61 USD) lên 12.015 CNY/tấn và giá cao su TSR20 tăng 50 CNY lên 10.075 CNY/tấn. Tính trong tháng 10, giá cao su gần như không thay đổi.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 30/9
|
Giá 31/10
|
31/10 so với 29/10
|
31/10 so với 29/10 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
54,07
|
54,18
|
-0,88
|
-1,6%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
60,78
|
60,23
|
-0,38
|
-0,6%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
36.940,00
|
37.060,00
|
-720,00
|
-1,91%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,33
|
2,63
|
-0,01
|
-0,23%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
160,49
|
159,58
|
+0,12
|
+0,08%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
190,56
|
187,80
|
-3,56
|
-1,86%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
587,00
|
569,25
|
+2,25
|
+0,40%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
54.270,00
|
53.970,00
|
-480,00
|
-0,88%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.476,70
|
1.514,40
|
-0,40
|
-0,03%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.101,00
|
5.237,00
|
+17,00
|
+0,33%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,05
|
18,07
|
+0,00
|
+0,02%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,30
|
62,70
|
-0,10
|
-0,16%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
884,35
|
932,80
|
+0,04
|
+0,00%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.684,25
|
1.796,45
|
-1,10
|
-0,06%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
256,55
|
264,00
|
+0,20
|
+0,08%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.725,00
|
5.797,00
|
-111,00
|
-1,88%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.721,50
|
1.755,00
|
-5,00
|
-0,28%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.378,00
|
2.482,50
|
-46,50
|
-1,84%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
15.925,00
|
16.525,00
|
-275,00
|
-1,64%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
387,25
|
389,25
|
-0,75
|
-0,19%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
497,00
|
507,75
|
-1,00
|
-0,20%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
277,75
|
297,25
|
+0,50
|
+0,17%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,00
|
12,00
|
-0,02
|
-0,21%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
905,75
|
931,50
|
-0,75
|
-0,08%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
302,10
|
304,60
|
+0,20
|
+0,07%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
29,13
|
30,72
|
-0,03
|
-0,10%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
451,20
|
457,30
|
-0,10
|
-0,02%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.442,00
|
2.446,00
|
-50,00
|
-2,00%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
101,15
|
101,95
|
+2,60
|
+2,62%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,65
|
12,48
|
+0,07
|
+0,56%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
99,75
|
98,85
|
+0,40
|
+0,41%
|
Bông
|
US cent/lb
|
60,77
|
64,34
|
-0,10
|
-0,16%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
367,10
|
405,80
|
-1,30
|
-0,32%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
159,70
|
171,90
|
-2,60
|
-1,49%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,48
|
1,43
|
+0,02
|
+1,49%
|
Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg