Năng lượng: Giá dầu và khí đốt đều giảm
Trong phiên cuối tuần, giá dầu tăng do dự trữ dầu của Châu Âu sụt giảm và kế hoạch cân bằng thị trường của Saudi Arabia. Chốt phiên này, giá dầu Brent tăng 1,15 USD (2%) lên 58,53 USD/thùng, trong khi dầu thô ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) tăng 1,96 USD (3,7%) lên 54,50 USD/thùng.
Các chuyên gia nhận định giá dầu tăng lên sau thống kê cho thấy dự trữ dầu thô và các chế phẩm dầu mỏ tại 16 quốc gia châu Âu trong tháng Bảy giảm thấp hơn so với tháng Sáu. Bên cạnh đó, thị trường còn nhận được hỗ trợ từ kế hoạch kiềm chế xuất khẩu mới đây của Saudi Arabia.
Ngày 8/8/2019, quốc gia Trung Đông này thông báo kế hoạch duy trì lượng dầu thô xuất khẩu dưới mức 7 triệu thùng/ngày trong tháng 8-9/2019, dù nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu tăng cao. Đây được cho là một động thái giúp giảm lượng dầu dự trữ trên thế giới, cũng như đưa thị trường nhiên liệu về mức cân bằng.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần này, giá dầu Brent giảm hơn 5%, dầu WTI giảm khoảng 2%; so với hồi tháng 4/2019 giá giảm khoảng 20% do lo ngại nhu cầu dầu sụt giảm do kinh tế thế giới suy yếu.
Báo cáo hàng tháng mới nhất của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) công bố ngày 9/8 cho biết những dấu hiệu suy giảm kinh tế toàn cầu cùng sự leo thang của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đã khiến nhu cầu dầu mỏ toàn cầu tăng với tốc độ chậm nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Trong bản báo cáo, IEA cho biết tình hình đang trở nên ngày càng bất ổn khi nhu cầu dầu trên toàn thế giới đã tăng trưởng rất chậm chạp trong giai đoạn từ tháng 1-5/2019, với mức tăng 520.000 thùng/ngày.
Mỹ thông báo sẽ áp thuế 10% lên lượng hàng hóa nhập khẩu trị giá 300 tỷ USD từ Trung Quốc bắt đầu từ ngày 1/9 tới, đồng thời cảnh báo sẽ tiếp tục tăng thuế nếu Trung Quốc không nhanh chóng tiến tới ký kết một thỏa thuận thương mại.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm vừa trải qua tuần giảm thứ 4 liên tiếp do dự báo thời tiết trong 2 tuần tới ít mát hơn so với dự báo trước đó. Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn New York giảm 0,9 US cent tương đương 0,4% xuống 2,119 USD/mmBTU. Tính chung cả tuần, giá khí tự nhiên giảm ít hơn 1%, tuần giảm thứ 4 liên tiếp – lần đầu tiên – kể từ cuối tháng 1/2019.
Kim loại quý: Giá vàng tăng mạnh
Giá vàng thế giới đã kết thúc tuần giao dịch khởi sắc khi đạt mức tăng theo tuần lớn nhất trong vòng hơn 3 năm qua và vượt ngưỡng 1.500 USD/ounce lần đầu tiên kể từ tháng 4/2013.
Phiên cuối tuần, vàng giao ngay giảm nhẹ 0,1% xuống 1.498,97 USD/ounce, sau khi có lúc vượt ngưỡng 1.500 USD/ounce – lần đầu tiên – kể từ tháng 4/2013 trong đầu tuần này. Vàng giao sau cũng giảm 0,1% và chốt phiên ở mức 1.508,5 USD/ounce.
Tính chung cả tuần, giá vàng tăng hơn 100 USD tương đương 4,4%, tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 4/2016 và tăng khoảng 17% trong năm nay.
Ông Craig Erlam, nhà phân tích thị trường cấp cao của công ty tư vấn tài chính OANDA, cho biếtvàng đang ở quanh mức giá cao như hiện tại bởi môi trường đang có những yếu tố gần như hoàn hảo để hỗ trợ kim loại quý này đi lên. Chúng bao gồm làn sóng cắt giảm lãi suất của các ngân hàng trung ương và lợi suất trái phiếu chính phủ âm tại nhiều nước trên thế giới.
Chuyên gia Erlam nói rằng về mặt kỹ thuật, nếu giá vàng có thể vượt qua ngưỡng 1.520-1.560 USD/ounce, thị trường sẽ bắt đầu chuyển hướng sang thế giá lên. Song nếu muốn giá vàng tiến xa hơn như vậy, cần có những dấu hiệu thuyết phục về một diễn biến kém tươi sáng hơn trong tương lai.
Kim loại công nghiệp: Giá sắt thép đều giảm
Giá quặng sắt tại Trung Quốc đã giảm phiên thứ 7 liên tiếp và có tuần giảm mạnh nhất hơn 16 tháng, trong bối cảnh nguồn cung dồi dào.
Trong phiên cuối tuần, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên giảm 3,8% xuống 639 CNY/tấn, trong phiên có lúc giảm 5,4% xuống 628 CNY (89,11 USD)/tấn. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt giảm 12%, tuần giảm mạnh nhất kể từ tuần kết thúc ngày 23/3/2018.
Thị trường đang đồn đoán nguồn cung từ Brazil sẽ phục hồi mạnh mẽ sau khi lượng quặng xuất khẩu trong tháng 7 đã chạm mức cao nhất 9 tháng còn Tập đoàn khai khoáng Vale cũng cho biết đang nỗ lực tăng cường sản xuất và công suất tuần cuối tháng 7 đã đạt tới 340 – 345 triệu tấn. Vale dự kiến liên doanh Samarco của tập đoàn này và BHP sẽ tái hoạt động trong nửa sau của năm 2020 và khi ấy nguồn cung sẽ càng dồi dào hơn nữa.
Giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 3,3% xuống 3.591 CNY/tấn. Đồng thời, giá thép cán nóng giảm 2% xuống 3.598 CNY/tấn, do dự trữ thép tại Trung Quốc tính đến ngày 8/8/2019 đạt 12,99 triệu tấn, tăng 1,16 triệu tấn so với tháng trước đó.
Nguồn cung thép tại Trung Quốc cũng đang ở mức cao và tồn kho lớn trong khi thị trường bớt kỳ vọng vào khả năng Bắc Kinh sẽ ban hành thêm các biện pháp thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ thép. Nguyên nhân là Trung Quốc đã loại bỏ các biện pháp kích thích ngắn hạn đối với thị trường bất động sản.
Ngoài ra, thép còn chịu áp lực bởi lo ngại nhu cầu sẽ bị ảnh hưởng trong bối cảnh chiến tranh thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đang ngày càng gia tăng.
Giá nickel giảm từ mức cao nhất 16 tháng, trong bối cảnh không chắc chắn về việc cấm xuất khẩu quặng của nước sản xuất hàng đầu – Indonesia, trong khi giá các kim loại khác giảm sau số liệu của Trung Quốc suy yếu. Giá nickel giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 2,1% xuống 15.550 USD/tấn, song tính chung cả tuần giá nickel tăng khoảng 7,5%. Tính từ đầu tháng 7/2019 đến nay, giá nickel tăng gần 40% kể từ mức cao nhất tháng 4/2018 (16.690 USD/tấn) trong ngày 8/6/2019, do lo ngại thiếu hụt nguồn cung.
Giá kẽm tại London giảm 3,1% xuống 2.233 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 10/2016 do lo ngại dư cung.
Indonesia đang thảo luận về việc đưa ra lệnh cấm xuất khẩu quặng khoáng sản bắt đầu vào năm 2022 và chưa có kết luận chính thức, Bộ trưởng Thương mại nước này cho biết.
Nông sản: Giá đường và cà phê tuần qua giảm
Phiên cuối tuần, giá đường thô tăng bởi giá dầu thô tăng và lo ngại về hạn hán tại các khu vực sản xuất đường chủ yếu của châu Á. Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn ICE tăng 0,46 US cent tương đương 4% lên 11,89 US cent/lb. Giá đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE tăng 8,1 USD tương đương 2,6% lên 318,6 USD/tấn.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá đường thô giảm 1,3%, trong khi đó đường trắng giảm 1,6%.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn ICE tăng 0,05 US cent tương đương 0,1% lên 97,45 US cent/lb. Tính chung cả tuần giá giảm 0,9%. Trong khi đó, giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE giảm 14 USD/tấn tương đương 1,1% xuống 1.298 USD/tấn. Tính chung cả tuần giá giảm 1,2%.
Giá đậu tương tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 1,5 tuần và có tuần tăng đầu tiên trong 1 tháng được hỗ trợ bởi hoạt động mua vào, trong bối cảnh lo ngại thời tiết khô tại Trung Tây Mỹ sẽ hạn chế năng suất cây trồng. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn Chicago tăng 8-3/4 US cent lên 8,91-3/4 USD/bushel. Tính chung cả tuần tăng 2,7%.
Giá ngô tăng trong khi lúa mì giảm trong bối cảnh các nhà đầu tư chờ đợi báo cáo cung cầu của Bộ Nông nghiệp Mỹ đưa ra vào thứ hai (12/8/2019). Giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Chicago tăng 1 US cent lên 4,99-1/2 USD/bushel. Tính chung cả tuần tăng 1,9%. Trong khi, giá ngô kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Chicago giảm 3/4 US cent xuống 4,1-1/4 USD/bushel. Tính chung cả tuần, giá ngô tăng 2,7%.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng phiên thứ 5 liên tiếp lên mức cao nhất gần 3,5 tháng, theo xu hướng giá dầu đậu tương tại Chicago tăng. Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Bursa Malaysia tăng 0,9% lên 2.155 ringgit (514,93 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch tăng 1,2% lên 2.160 ringgit/tấn, cao nhất kể từ ngày 25/4/2019. Tính chung cả tuần, giá dầu cọ tăng 4,5%.
Giá cao su tại Tokyo tăng do giá dầu tăng và theo xu hướng giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải tăng. Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn TOCOM tăng 0,3 JPY (0,0028 USD) lên 169,1 JPY/kg. Giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 2/2020 trên sàn TOCOM tăng 0,5 JPY lên 142,5 JPY/kg. Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 35 CNY (4,96 USD) lên 10.555 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 3/8/2019
|
Giá 10/8/2019
|
Giá 10/8 so với 9/8
|
Giá 10/8 so với 9/8 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
55,66
|
54,50
|
+1,96
|
+3,73%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
61,89
|
58,53
|
+1,15
|
+2,00%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
37.430,00
|
35.620,00
|
+420,00
|
+1,19%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,12
|
2,12
|
-0,01
|
-0,42%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
178,15
|
167,40
|
+2,83
|
+1,72%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
189,02
|
180,80
|
+3,14
|
+1,77%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
578,00
|
555,50
|
+12,75
|
+2,35%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
55.400,00
|
53.680,00
|
+400,00
|
+0,75%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.457,50
|
1.508,50
|
-1,00
|
-0,07%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.925,00
|
5.076,00
|
-38,00
|
-0,74%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,27
|
16,93
|
0,00
|
-0,03%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
55,60
|
57,90
|
-0,30
|
-0,52%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
844,89
|
860,93
|
-4,53
|
-0,52%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.409,28
|
1.424,55
|
+2,17
|
+0,15%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
257,15
|
258,90
|
-1,85
|
-0,71%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.729,50
|
5.755,00
|
-43,00
|
-0,74%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.770,00
|
1.771,00
|
-7,00
|
-0,39%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.350,00
|
2.234,00
|
-70,00
|
-3,04%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
16.980,00
|
16.900,00
|
+45,00
|
+0,27%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
409,50
|
417,75
|
-0,50
|
-0,12%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
490,75
|
501,50
|
+1,50
|
+0,30%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
270,00
|
275,75
|
+1,75
|
+0,64%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,71
|
11,37
|
+0,02
|
+0,13%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
868,50
|
891,75
|
+8,75
|
+0,99%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
299,40
|
303,70
|
+1,70
|
+0,56%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,71
|
29,95
|
+0,57
|
+1,94%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
444,80
|
454,10
|
+1,90
|
+0,42%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.361,00
|
2.242,00
|
-12,00
|
-0,53%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
98,15
|
100,70
|
-0,15
|
-0,15%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,02
|
11,86
|
+0,43
|
+3,76%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
99,20
|
102,30
|
+0,50
|
+0,49%
|
Bông
|
US cent/lb
|
59,42
|
58,90
|
-0,68
|
-1,14%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
368,00
|
348,90
|
-14,70
|
-4,04%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
169,20
|
170,00
|
+0,90
|
+0,53%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,46
|
1,44
|
+0,00
|
+0,21%
|
Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters