Năng lượng: Giá dầu tăng tuần tăng thứ 2 liên tiếp
Thị trường dầu mỏ thế giới tiếp tục biến động, và chốt tuần giá tưng tuần thứ 2 liên tiếp giữa bối cảnh giới đầu tư tiếp tục dõi theo diễn biến cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 95 US cent, tương đương 1,7%, lên 57,72 USD/thùng, tính chung cả tuần giá tăng khoảng 0,8%; dầu Brent Biển Bắc giao tháng 1/2020 tăng 1,02 USD, hay 1,6%, lên 63,30 USD/thùng, tính chung cả tuần tăng 1,3%.
Thị trường ngày càng lạc quan rằng Trung Quốc và Mỹ sẽ sớm đạt được thỏa thuận thương mại “giai đoạn một” như Bộ trưởng Thương mại Mỹ Wilbur Ross đã khẳng định. Trả lời phỏng vấn kênh truyền hình Fox Business Network, Bộ trưởng Wilbur Ross nêu rõ: "Hiện chúng tôi đã đạt đến những chi tiết cuối cùng".
Bên cạnh đó, số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ giảm xuống tuần thứ tư liên tiếp cũng là một yếu tố có lợi đối với giá “vàng đen”. Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes mới đây cho biết số giàn khoan đang hoạt động của Mỹ đã giảm 10 giàn xuống còn 674 giàn trong tuần này.
Tuy nhhiên, thị trường vẫn lo ngại các cuộc đàm phán có thể chưa đi đến hồi kết. Chỉ mới đầu tuần vừa qua, Tổng thống Mỹ Donald Trump khi tham dự cuộc họp của Câu lạc bộ Kinh tế New York đã cung cấp những thông tin trái chiều về đàm phán thương mại Mỹ-Trung Quốc và không có thông tin cụ thể về bất kỳ tiến triển mới nào trong vấn đề này. Ông Trump cho biết các nhà đàm phán Mỹ và Trung Quốc đã tiến gần tới thỏa thuận thương mại “Giai đoạn 1”, song vẫn nhắc lại nhận định Trung Quốc có các hành vi “không đẹp” trong vấn đề thương mại.
Kim loại quý: Giá vàng hồi phục
Phiên cuối tuần, giá vàng giảm do thị trường lạc quan về diễn biến đàm phán thương mại Mỹ - Trung. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá vẫn tăng.
Phiên cuối tuần, giá vàng giảm do chứng khoán Mỹ tăng điểm lên mức cao kỷ lục sau những bình luận của Bộ trưởng Thương mại Mỹ về khả năng ký được thỏa thuận giai đoạn 1 với Trung Quốc. Cuối phiên, vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.466,78 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 0,3% xuống 1.468,5 USD/ounce.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá vẫn tăng khoảng 0,6% bởi 3 phiên giữa tuần liên tiếp tăng.
Về các kim loại quý khác, giá bạc cũng giảm 0,4% xuống 16,95 USD/ounce, tính chung cả tuần cũng tăng khoảng 0,9%; bạch kim tăng 1,2% lên 891,19 USD/ounce trong cùng phiên và tăng 0,5% trong tuần; còn palađi giảm 1,4% trong một phiên xuống 1.713,11 USD/ounce và cả tuần giảm 1,7% - tuần thứ 2 liên tiếp giảm.
Bộ trưởng Thương mại Mỹ Wilbur Ross mới đây cho biết Mỹ và Trung Quốc sẽ điện đàm để tiếp tục cuộc đàm phán giữa hai bên, khi cả Washington và Bắc Kinh đang tìm cách hiện thực hóa thỏa thuận thương mại “Giai đoạn 1”. Thông tin trên đã khiến tâm lý thị trường khá lạc quan về triển vọng thỏa thuận “Giai đoạn 1” giữa hai nước từ đó ảnh hưởng tới những tài sản “trú ẩn an toàn” như vàng.
Nhà phân tích thị trường cấp cao Edward Moya của công ty tư vấn đầu tư OANDA cho biết nhìn chung, giá vàng tuần qua bị chi phối chủ đạo bởi những diễn biến của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung.
Theo ông Jonathan Butler, nhà phân tích của công ty tài chính Mitsubishi, thị trường vàng trong những ngày tiếp theo sẽ theo dõi một vài số liệu quan trọng – bao gồm chỉ số nhà sản xuất mua hàng (PMI) của ngành chế tạo tại Mỹ và biên bản cuộc họp mới nhất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Giới đầu tư sẽ tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy nội bộ của ngân hàng trung ương này tranh luận về việc cắt giảm lãi suất mạnh mẽ hơn hoặc liệu các quan chức có thực sự muốn giữ nguyên lãi suất trong thời điểm hiện tại hay không.
Kim loại công nghiệp: Giá kim loại cơ bản giảm, sắt thép tăng
Mặc dù tăng ở phiên cuối tuần song giá đồng và các kim loại cơ bản khác đều giảm trong tuần vừa qua do lo ngại tăng trưởng kinh tế yếu đi khiến nhu cầu chậm lại, sau khi hồi đầu tuần các quan chức Mỹ đưa tin thỏa thuận thương mại với Trung Quốc đang đến gần nhưng còn nhiều vướng mắc.
Chốt phiên cuối tuần, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,6% lên 5.849 USD/tấn, nhưng tính chung cả tuần vẫn giảm hơn 1%.
Các kim loại cơ bản khác cũng giảm từ 3% đến 7,5% trong tuần này, trong đó nhôm giảm gần 3%, kẽm giảm gần 4%, nickel giảm khoảng 7,5%, chì giảm gần 5% và thiếc giảm khoảng 3,5%.
Giá thép cây tại Trung Quốc phiên vừa qua tiếp tục tăng, thêm 2% lên 3.545 CNY (506,86 USD)/tấn (kỳ hạn tháng 1/2020), tính chung cả tuần tăng khoảng 3,9%, nhiều nhất kể từ 13/9. Nguyên nhân bởi nhu cầu mạnh lên do Chính phủ Trung Quốc tung ra các chương trình kích thích kinh tế. Thép cuộn cán nóng cũng tăng 1,9% trong cùng phiên, lên 3.408 CNY/tấn; thép không gỉ tăng 0,2% lên 14.357 CNY/tấn.
Quặng sắt cũng tăng giá sau thông tin tỷ lệ sử dụng công suất sản xuất của các nhà máy thép Trung Quốc tuần này tăng lên mức cao nhất kể từ giữa tháng 9.
Quặng kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 3,1% trong phiên cuối tuần, lên 629 CNY/tấn; tính chung cả tuần tăng 4,8%.
Nông sản: Giá đường tăng, cà phê giảm
Phiên cuối tuần qua, giá đường thô giảm do đồng real yếu đi và tồn trữ từ vụ trước còn nhiều. Giá cà phê cũng giảm. Tuy nhiên, tính chung cả tuần thì giá đường tăng, còn cà phê giảm.
Đường thô kỳ hạn tháng 3 năm sau giảm 0,08 US cent, tương đương 0,6% xuống 12,72 US cent/lb, tuy nhiên tính chung cả tuần tăng 1,2%. Đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 3,8 USD tương đường 1,1% xuống 336,7 USD/tấn.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 1,185 US cent, hay 1,7%, xuống 1,0965 USD/lb, tính chung cả tuần giảm tuần thứ 4 liên tiếp, do đồng real yếu đi. Robusta kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 23 USD, tương đương 1,6% xuống 1.398 USD/tấn.
Giá dầu cọ tại Malaysia phiên vừa qua giảm gần 1% và tính chung cả tuần giảm nhiều nhất kể từ cuối tháng 8 do giá dầu đậu tương ở Chicago và dầu cọ ở Đại Liên (Trung Quốc) đều giảm.
Dầu cọ trên sàn Bursa (Malaysia) giảm 0,9% trong phiên này, xuống 2.583 ringgit (624,21 USD)/tấn. Tính chung cả tuần, giá giảm khoảng 2,4%, nhiều nhất kể từ 23/8.
Giá cao su tại Tokyo phiên vừa qua giảm do cung cao mà cầu lại thấp. Hợp đồng kỳ hạn tháng 4/2020 tại TOCOM giảm 0,3 JPY (0,0027 USD) xuống 182 JPY/kg; kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 195 CNY (27,88 USD)/tấn. Đối với loại TSR, ở Trung Quốc giá 10.150 CNY/tấn (giảm 165 CNY), trong khi ở TOCOM vững ở 149,1 JPY/kg (kỳ hạn tháng 5/2020).
Tháng 11 – 12 là giai đoạn sản lượng tăng ở khu vực Đông Nam Á. Nhà phân tích Xiaonan thuộc JLC Network Technology Co Ltd cho biết: "Các nhà máy lốp xe ở miền Bắc Trung Quốc đã hạn chế sản xuất kể từ tháng 10 do nhu cầu yếu".
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 9/11

Giá 16/11

16/11 so với 15/11

16/11 so với 15/11 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

57,24

57,72

+0,95

+1,67%

Dầu Brent

USD/thùng

62,51

63,30

+1,02

+1,64%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.880,00

39.280,00

+570,00

+1,47%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,79

2,69

+0,04

+1,55%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

163,37

163,50

+1,92

+1,19%

Dầu đốt

US cent/gallon

191,81

194,80

+3,01

+1,57%

Dầu khí

USD/tấn

576,50

587,25

+6,50

+1,12%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.860,00

56.280,00

+520,00

+0,93%

Vàng New York

USD/ounce

1.462,90

1.468,50

-4,90

-0,33%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.118,00

5.122,00

+19,00

+0,37%

Bạc New York

USD/ounce

16,82

16,95

-0,08

-0,47%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,10

59,20

+0,30

+0,51%

Bạch kim

USD/ounce

887,21

890,60

+9,38

+1,06%

Palađi

USD/ounce

1.746,56

1.711,15

-28,04

-1,61%

Đồng New York

US cent/lb

268,20

265,15

+1,65

+0,63%

Đồng LME

USD/tấn

5.924,00

5.849,00

+37,00

+0,64%

Nhôm LME

USD/tấn

1.807,50

1.755,00

+14,00

+0,80%

Kẽm LME

USD/tấn

2.482,00

2.380,00

-16,00

-0,67%

Thiếc LME

USD/tấn

16.700,00

16.100,00

-100,00

-0,62%

Ngô

US cent/bushel

377,25

380,75

-4,00

-1,04%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

510,25

506,00

-5,00

-0,98%

Lúa mạch

US cent/bushel

304,25

309,00

+0,25

+0,08%

Gạo thô

USD/cwt

12,04

11,89

+0,05

+0,38%

Đậu tương

US cent/bushel

931,00

918,25

+1,50

+0,16%

Khô đậu tương

USD/tấn

304,90

309,20

+3,90

+1,28%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,50

30,60

-0,37

-1,19%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

463,30

462,50

+0,50

+0,11%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.498,00

2.681,00

+12,00

+0,45%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

112,85

109,65

-1,85

-1,66%

Đường thô

US cent/lb

12,57

12,73

-0,08

-0,62%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

100,30

100,50

+0,05

+0,05%

Bông

US cent/lb

66,57

66,69

+0,61

+0,92%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

393,00

396,40

-2,30

-0,58%

Cao su TOCOM

JPY/kg

178,80

179,00

-3,00

-1,65%

Ethanol CME

USD/gallon

1,42

1,43

+0,01

+0,63%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg