Năng lượng: Giá dầu giảm gần 2%
Phiên cuối tuần, giá dầu đi xuống, trong đó dầu Brent giảm 49 US cent xuống 59,42 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 15 US cent xuống 53,78 USD/thùng. Tính chung cả tuần, giá dầu Brent giảm 1,8%, trong khi dầu WTI để mất 1,7%.
Lo ngại về triển vọng kinh tế Trung Quốc sa sút đã tác động tiêu cực lên thị trường dầu. Số liệu mới nhất cho thấy tăng trưởng kinh tế nước này trong quý III/2019 chỉ đạt 6% (so với cùng kỳ năm 2018). Đây là mức yếu nhất trong hơn 27 năm do hoạt động chế tạo yếu đi và căng thẳng thương mại với Mỹ chưa được giải quyết.
Tuy nhiên, sản lượng dầu lọc tháng 9/2019 của các nhà máy Trung Quốc đã tăng 9,4% so với cùng kỳ năm ngoái, một tín hiệu cho thấy nhu cầu từ nhà nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới vẫn mạnh mẽ bất chấp những khó khăn về kinh tế.
Kim loại quý: Giá vàng tăng nhẹ
Phiên cuối tuần, giá vàng biến động nhẹ. Vàng giao ngay hầu như không đổi ở mức 1.490,70 USD/ounce; vàng giao sau giảm 0,3% xuống 1.494,10 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá tăng khiêm tốn (0,4%) giữa bối cảnh thị trường lo ngại về tranh chấp thương mại Mỹ - Trung và khả năng xảy ra Brexit không thỏa thuận.
Vương quốc Anh và Liên minh châu Âu (EU) đã đạt được một thỏa thuận Brexit mới vào thứ Năm (17/10), nhưng chưa chắc thỏa thuận đó có được Quốc hội Anh phê chuẩn vào ngày 19/10 hay không.
Ông Tai Wong, người đứng đầu mảng giao dịch kim loại quý và kim loại cơ bản phái sinh của ngân hàng BMO, cho biết đồng USD yếu đi có thể đã hỗ trợ phần nào cho giá vàng. Nhưng nhiều khả năng thị trường này đã tìm được trạng thái cân bằng cho đến khi một yếu tố mới xuất hiện. Chuyên gia này nhận định phạm vi 1.380 - 1.400 USD/ounce là ngưỡng kháng cự phía dưới khá vững chắc và mức 1.480 – 1.520 USD/ounce dường như là điểm cân bằng cho kim loại quý này.
Yếu tố khác cũng đang được thị trường theo dõi là những phát ngôn từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Theo ông David Meger, người đứng đầu mảng giao dịch kim loại của công ty High Ridge Futures, thị trường đang hy vọng sẽ xuất hiện sóng mới nếu quan điểm cắt giảm lãi suất của Fed có bất kỳ thay đổi nào tại cuộc họp cuối tháng này.
Trong những ngày gần đây, đã có các cuộc thảo luận về việc Fed có thể tạm dừng việc hạ lãi suất. Một trong những dấu hiệu đó là việc Chủ tịch Fed chi nhánh Dallas, ông Robert Kaplan mới đây đã nói rằng Fed theo dõi các dấu hiệu cho thấy sự suy giảm thương mại toàn cầu đang có tác động lên nền kinh tế Mỹ vượt ra ngoài các lĩnh vực chế tạo và đầu tư. Nhưng ngân hàng trung ương này vẫn chưa tiến vào "chu kỳ cắt giảm lãi suất toàn diện".
Kim loại công nghiệp: Kim loại cơ bản tăng, sắt giảm
Phiên cuối tuần, giá đồng tăng sau số liệu cho thấy đầu tư trong các lĩnh vực bất động sản và cơ sở hạ tầng của Trung Quốc tăng trưởng tích cực, trong khi kẽm và chì lên mức cao nhất nhiều tháng do nhà đầu tư lo lắng về tình trạng thiếu hụt nguồn cung. Đầu tư bất động sản của Trung Quốc tăng 10,5% trong 9 tháng đầu năm 2019, trong khi đầu tư cơ sở hạ tầng tháng 9/2019 tăng 4,5% và sản lượng công nghiệp tăng vượt dự báo ở mức 5,8%.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 1,2% lên 5.806 USD/tấn; kẽm tăng 0,7% lên 2.457 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 30/7; chì tăng 0,4% lên 2.181 USD/tấn, trong phiên có lúc giá đã lên 2.214,5 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 7/2018.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc vừa trải qua tuần giảm sâu nhất trong hơn 2 tháng mặc dù phục hồi nhẹ trong phiên cuối tuần, do việc tăng cường hạn chế sản xuất thép nhằm kiềm chế ô nhiễm không khí.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 0,7% lên 616 CNY (86,99 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất trong 7 tháng. Quặng sắt 62% giao ngay giảm xuống mức thấp nhất trong 7 tuần, chỉ đạt 86,5 USD/tấn, theo số liệu của công ty tư vấn SteelHome. Thép cây trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,2%, thép cuộn cán nóng tăng 0,1%.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 9 giảm xuống mức thấp nhất 6 tháng do hoạt động của nhà máy bị ảnh hưởng bởi việc hạn chế sản xuất. Kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại làm tăng lo ngại nhu cầu các sản phẩm thép cũng như nguyên liệu thép sẽ yếu đi.
Nông sản: Giá đường và cà phê tăng
Phiên giao dịch cuối tuần trên sàn Chicago, giá nông sản biến động trái chiều. Cụ thể, ngô giao tháng 12/2019 giảm 6,75 US cent (1,7%) xuống 3.91 USD/bushel; đậu tương giao tháng 11/2019 giảm 2 US cent (0,21%) xuống 9,34 USD/bushel; trong khi lúa mỳ giao tháng 12/2019 tăng 24,25 US cent (4,77%) lên 5,3225 USD/bushel.
Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), doanh số xuất khẩu ngô trong tuần kết thúc ngày 10/10 chỉ đạt 368.600 tấn, giảm 48% so với mức trung bình của bốn tuần trước đó; doanh số xuất khẩu lúa mỳ Mỹ đạt 395.100 tấn, cũng giảm 24% so với tuần trước đó.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 đóng cửa phiên cuối tuần tăng 0,08 US cent hay 0,7% lên 12,32 US/lb, sau khi có lúc xuống 12,2 US cent, mức thấp nhất kể từ ngày 24/9. Tính chung cả tuần, hợp đồng này đã giảm 0,7%. Đồng real yếu đi thúc đẩy hoạt động bán ra từ Brazil, song lo ngại thiếu hụt nguồn cung trong niên vụ 2019/20 hỗ trợ giá đi lên. Trái với đường thô, giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 3,1 USD hay 0,9% xuống 335,9 USD/tấn.
Cà phê arabia kỳ hạn tháng 12 tăng 2,8 US cent hay 3% lên 95,7 US cent/lb, rời khỏi mức thấp nhất trong tuần trước là 92,2 US cent. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2019 tăng 24 USD hay 2% lên 1.251 USD/tấn. Mặc dù giá tăng song nhà đầu tư vẫn lo ngại giá sẽ sớm quay đầu giảm vì triển vọng sản lượng của Brazil năm tới sẽ cao kỷ lục.
Với mặt hàng cao su, giá trên thị trường Tokyo tăng theo xu hướng ở Thượng Hải, trong bối cảnh lạc quan về thỏa thuận thương mại Mỹ - Trung Quốc. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/2020 tại sàn TOCOM tăng 2,2 JPY lên 166 JPY/kg; cao su kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 189 CNY (25,42 USD) đóng cửa tại 11.765 CNY/tấn; cao su TSR 20 của Trung Quốc tăng 100 CNY lên 9.980 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 12/10

Giá 19/10

Giá 19/10 so với 18/10

Giá 19/10 so với 18/10 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

54,70

53,78

-0,15

-0,28%

Dầu Brent

USD/thùng

60,51

59,42

-0,49

-0,82%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.130,00

37.090,00

-150,00

-0,40%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,21

2,32

+0,00

+0,09%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

163,88

162,30

+0,05

+0,03%

Dầu đốt

US cent/gallon

195,76

194,71

-0,10

-0,05%

Dầu khí

USD/tấn

595,75

589,25

+5,25

+0,90%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

54.620,00

54.510,00

-230,00

-0,42%

Vàng New York

USD/ounce

1.488,70

1.494,10

-4,20

-0,28%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.169,00

5.182,00

-8,00

-0,15%

Bạc New York

USD/ounce

17,54

17,58

-0,03

-0,19%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,20

61,20

+0,20

+0,33%

Bạch kim

USD/ounce

895,05

890,23

+2,96

+0,33%

Palađi

USD/ounce

1.700,04

1.755,95

-5,97

-0,34%

Đồng New York

US cent/lb

262,80

263,60

+3,85

+1,48%

Đồng LME

USD/tấn

5.796,00

5.806,00

+67,00

+1,17%

Nhôm LME

USD/tấn

1.722,00

1.738,00

+11,00

+0,64%

Kẽm LME

USD/tấn

2.419,00

2.457,00

+18,00

+0,74%

Thiếc LME

USD/tấn

16.525,00

16.950,00

-200,00

-1,17%

Ngô

US cent/bushel

397,75

391,00

-3,75

-0,95%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

508,00

532,25

+6,75

+1,28%

Lúa mạch

US cent/bushel

289,25

294,25

-4,50

-1,51%

Gạo thô

USD/cwt

12,06

12,20

-0,08

-0,65%

Đậu tương

US cent/bushel

936,00

934,00

+2,50

+0,27%

Khô đậu tương

USD/tấn

310,80

308,50

+1,70

+0,55%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,97

30,36

-0,03

-0,10%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

459,90

461,80

-3,60

-0,77%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.506,00

2.486,00

-2,00

-0,08%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

93,70

95,70

+2,80

+3,01%

Đường thô

US cent/lb

12,41

12,32

+0,08

+0,65%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

97,40

102,15

-0,30

-0,29%

Bông

US cent/lb

63,88

65,16

+0,17

+0,26%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

369,40

385,60

-4,00

-1,03%

Cao su TOCOM

JPY/kg

163,90

166,90

+0,90

+0,54%

Ethanol CME

USD/gallon

1,51

1,44

-0,01

-0,55%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg