Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh nhất nhiều tuần
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu đồng loạt tăng do số liệu cho thấy số việc làm ở Mỹ tăng và nỗi lo về kinh tế toàn cầu tăng chậm đã dịu lại. Dầu Brent biển Bắc tăng 66 cent, tương đương 1,14%, lên 58,37 USD/thùng; ngọt nhẹ Mỹ tăng 36 US cent, tương đương 0,7%, lên 52,81 USD/thùng.
Tăng trưởng việc làm tại Mỹ trong tháng 9/2019 ở mức vừa phải với tỷ lệ thất nghiệp 3,5%, thấp nhất gần 50 năm.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần thì dầu Brent giảm 5,7%, trong khi dầu WTI giảm 5,5%, những mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 7/2019.
Những số liệu kinh tế từ khắp nơi trên thế giới gần đây nhìn chung cho thấy xu hướng kinh tế toàn cầu đang tăng chậm lại. Thị trường việc làm Mỹ vẫn tốt nhưng sản xuất của nước nầy giảm mạnh nhất trong vòng hơn 10 năm, lĩnh vực dịch vụ tăng trưởng thấp nhất kể từ 2016… cho thấy cuộc chiến thương mại với Trung Quốc bắt đầu ảnh hưởng tới nền kinh tế lớn nhất thế giới này.
Về phía nguồn cung, Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia ngày 3/10/2019 cho biết, nước này đã khôi phục hoàn toàn sản lượng sau vụ tấn công nhằm vào các cơ sở lọc dầu của công ty Aramco. Trong khi đó, công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho biết các công ty năng lượng Mỹ trong tuần qua đã giảm 3 giàn khoan xuống còn 710 giàn khoan, thấp nhất kể từ tháng 5/2017. Đây là tuần thứ 7 liên tiếp số giàn khoan của Mỹ giảm.
Kim loại quý: Giá vàng khởi sắc
Phiên cuối tuần, giá vàng biến động nhẹ. Vàng giao ngay thêm 0,1% lên 1.506,76 USD/ounce, trong khi vàng giao sau giảm 0,1% xuống 1.512,90 USD/ounce.
Tính chung cả tuần, giá vàng tăng 0,7%, đảo ngược mức giảm 1,2% của tuần trước đó, do nhà đầu tư lạc quan về triển vọng của mặt hàng vàng.
Sự yếu kém dai dẳng của các chỉ số kinh tế trên toàn cầu giữa lúc cuộc chiến thương mại Mỹ -Trung chưa tìm được giải pháp đã giúp giá vàng tăng khoảng 17% tính từ đầu năm đến nay. Các nhà đầu tư vẫn đang theo dõi chặt chẽ diễn biến xung quanh các cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung khi hai bên dự kiến sẽ gặp mặt vào tuần tới.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim giảm 0,9% xuống còn 882,26 USD/ounce và tính chung cả tuần giá giảm hơn 5%, mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ tháng 5; giá bạc ổn định ở mức 17,56 USD; trong khi palađi tăng 1% lên 1.669,25 USD/ounce.
Chủ tịch và chiến lược gia toàn cầu của Independent Strategy, ông David Roche, dự báo giá vàng có thể tăng khoảng 30%, lên tới 2.000 USD vào năm tới, do hình ảnh của các đồng tiền pháp định được phát hành bởi các NHTW đang xấu đi.
"Vàng là 1 loại tài sản thay thế rất tốt cho tiền tệ vì tính an toàn và sẽ không mất phí để nắm giữ vàng, so với việc phải chịu mức lãi suất âm khi đi gửi tiền như ở một số nơi hiện nay", ông David Roche phát biểu trên chương trình "Squawk Box" của đài CNBC. Ông dự báo giá vàng sẽ chạm mốc 1.600 USD trước cuối năm nay, trước khi tiếp tục tăng lên 2.000 USD trong năm tới.
Tháng trước, các NHTW lớn trên thế giới đều có những bước đi mạnh mẽ, theo đó Fed hạ mức mục tiêu lãi suất cho vay qua đêm xuống còn 1,75% - 2%, trong khi NHTW châu Âu (ECB) cũng hạ lãi suất huy động xuống mức thấp kỷ lục -0,5% và triển khai chương trình mua trái phiếu quy mô lớn. Tất cả đều diễn ra trong tháng 9. Ở Nhật Bản, nơi lãi suất ngắn hạn vốn đã ở mức âm, NHTW nước này cũng phát tín hiệu có thể nới lỏng chính sách tiền tệ một lần nữa vào tháng 10.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm
Phiên cuối tuần, giá đồng tiếp tục giảm thấp do lo ngại về tăng trưởng toàn cầu yếu mặc dù tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ giảm xuống gần mức thấp nhất trong 50 năm, trong khi nguồn cung bớt thắt chặt. Tại LME, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng giảm 0,3% xuống còn 5.643 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá giảm 2,1%.
Trong số các kim loại công nghiệp khác, giá nhôm tăng 0,1% lên 1.719 USD/tấn; giá kẽm tăng 0,2% lên 2.300 USD, trong khi giá thiếc ổn định ở mức 16.475 USD/tấn. Giá chì tăng 1,5% đạt 2.160 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 3; giá nickel tăng 0,9% đạt 17.790 USD/tấn, kết thúc một tuần tăng đầu tiên trong 3 tuần qua. Tồn kho nickel tại LME đã giảm xuống còn 133.128 tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 11/2012.
Nông sản: Giá đường tăng mạnh
Phiên cuối tuần, giá đường thô tại New York tăng nhẹ. Hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 0,02 cent, tương đương 0,2%, lên mức 12,76 US cent/lb. Tính chung cả tuần, giá tăng 10% do lượng mua mạnh trong khi nguồn cung thắt chặt. Mức cao nhất trong tuần đạt được vào ngày 3/10/2019, là 12,93 US cent/lb, cao nhất kể từ 12/8/2019. Đướng trắng trên sàn London kỳ hạn tháng 12/2019 phiên cuối tuần cũng tăng 4,9 USD, tương đương 1,4%, đạt 345,5 USD/tấn. Tính chung cả tuần tăng 1,2%.
Giá cà phê giảm do nguồn cung dồi dào sau hai mùa sản xuất vượt xa nhu cầu. Colombia đã sản xuất 1,09 triệu bao cà phê arabica trong tháng 9, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước.
Trong phiên cuối tuần, cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 3,05 US cent, tương đương gần 3%, xuống còn 0,99 USD/lb; tính chung cả tuần, giá arabica giảm 1,8%. Cà phê robusta cùng phiên giảm 19 USD, tương đương 1,4%, xuống còn 1.312 USD/tấn.
Cao su hợp đồng tham chiếu trên sàn Tokyo phiên cuối tuần giảm 0,6 JPY tương đương 0,4% xuống 155 JPY (1,45 USD)/kg, quanh mức thấp nhất 10 tháng. Tính chung cả tuần, giá giảm 4% và là tuần giảm thứ 3 liên tiếp.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 30/9
|
Giá 5/10
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
54,07
|
52,81
|
+0,36
|
+0,69%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
60,78
|
58,37
|
+0,66
|
+1,14%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
36.940,00
|
35.740,00
|
+370,00
|
+1,05%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,33
|
2,35
|
+0,02
|
+0,99%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
160,49
|
157,34
|
+1,75
|
+1,12%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
190,56
|
189,45
|
+1,85
|
+0,99%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
587,00
|
579,75
|
+13,50
|
+2,38%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
54.270,00
|
53.200,00
|
+330,00
|
+0,62%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.476,70
|
1.512,90
|
-0,90
|
-0,06%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.101,00
|
5.156,00
|
-14,00
|
-0,27%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,05
|
17,63
|
-0,05
|
-0,29%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,30
|
59,40
|
-0,80
|
-1,33%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
884,35
|
880,02
|
-8,62
|
-0,97%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.684,25
|
1.667,46
|
+8,72
|
+0,53%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
256,55
|
256,25
|
+0,90
|
+0,35%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.725,00
|
5.643,00
|
-19,00
|
-0,34%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.721,50
|
1.719,00
|
+1,00
|
+0,06%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.378,00
|
2.300,00
|
+5,00
|
+0,22%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
15.925,00
|
16.475,00
|
0,00
|
0,00%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
387,25
|
384,75
|
-4,00
|
-1,03%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
497,00
|
490,50
|
+1,75
|
+0,36%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
277,75
|
286,00
|
-1,00
|
-0,35%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,00
|
11,66
|
-0,05
|
-0,47%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
905,75
|
916,25
|
+4,50
|
+0,49%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
302,10
|
303,70
|
+0,80
|
+0,26%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
29,13
|
29,86
|
-0,03
|
-0,10%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
451,20
|
460,70
|
+1,50
|
+0,33%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.442,00
|
2.475,00
|
-45,00
|
-1,79%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
101,15
|
99,00
|
-3,05
|
-2,99%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,65
|
12,76
|
+0,02
|
+0,16%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
99,75
|
100,05
|
+0,15
|
+0,15%
|
Bông
|
US cent/lb
|
60,77
|
61,67
|
+0,07
|
+0,11%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
367,10
|
365,70
|
+1,50
|
+0,41%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
159,70
|
156,90
|
-0,20
|
-0,13%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,48
|
1,39
|
-0,03
|
-2,32%
|
Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg