Năng lượng: Giá dầu tăng, khí gas giảm
Phiên cuối tuần, giá dầu đạt mức cao nhất trong vòng 6 tuần và tính chung cả tuần cũng tăng.
Chốt phiên này, dầu ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 9 US cent, hay 0,2%, lên 57,24 USD/thùng; dầu Brent kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 22 US cent lên 62,51 USD/thùng.
Số giàn khoan dầu đang hoạt động tại Mỹ giảm trong tuần đã hỗ trợ giá dầu trong phiên này. Số liệu của Baker Hughes Co. cho thấy số giàn khoan đang hoạt động tại Mỹ giảm tuần thứ ba liên tiếp, thấp hơn 7 giàn so với một tuần trước, xuống 684, và giảm 202 giàn so với cùng kỳ năm trước.
Lạc quan về tiến triển đàm phán thương mại Mỹ - Trung đã hỗ trợ giá dầu đi lên trong tuần qua. Bên cạnh đó, số liệu hải quan cho thấy nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc trong tháng 10 tăng 11,5% so với một năm trước lên mức cao kỷ lục. Tính chung cả tuần, giá dầu Brent tăng 1,3%, trong khi dầu WTI tăng 1,9%.
Giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) giao ngay trên thị trường Châu Á giảm tuần thứ 3 liên tiếp do dự đoán mùa đông không quá lạnh làm giảm nhu cầu, trong bối cảnh nguồn cung toàn cầu dồi dào. Giá LNG giao sang Đông Bắc Á kỳ hạn tháng 12/2019 ước tính khoảng 5,7 USD/mmBtu, giảm 20 US cent so với tuần trước. Hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 giá khoảng 6,3 USD/mmBtu. Theo số liệu của Refinitiv Eikon, giá LNG giao ngay đang ở mức thấp nhất trong vòng một thập kỷ (so với cùng thời điểm này mỗi năm).
Kim loại quý: Giá vàng giảm mạnh
Phiên giao dịch cuối tuần, giá vàng giảm do các nhà đầu tư chuyển hướng từ các tài sản an toàn sang những tài sản rủi ro nhưng mang lại lợi nhuận cao hơn do sự lạc quan về triển vọng tích cực của thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.463,2 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá giảm 3,2%, mức giảm lớn nhất kể từ tuần kết thúc ngày 5/5/2017. Cũng trong phiên này, giá vàng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 3,5 USD, hay 0,2%, xuống 1.462,9 USD/ounce.
Trong tuần qua, thông tin cho thấy thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung giai đoạn một đang trong quá trình hoàn tất, khiến vàng trở nên kém hấp dẫn trong ngắn hạn. Việc thị trường chứng khoán Mỹ và lãi suất trái phiếu chính phủ tăng trong tuần và đồng USD mạnh lên cũng góp phần làm giảm nhu cầu đối với vàng. Tuy nhiên, Cố vấn của Nhà Trắng, Peter Navarro, cuối tuần cho biết Mỹ vẫn chưa nhất trí về vấn đề trên.
Phó Chủ tịch GoldMining Inc, Jeff Wright, nhận định giá vàng có thể phục hồi trong những tuần tới, khi Quốc hội tiến hành các phiên điều trần nhằm vào ông Trump, nhưng giá vàng sẽ phải duy trì được ở mức 1.425-1.450 USD/ounce trước khi có thể bứt phá lên cao.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,2% xuống 16,9 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất kể từ 13/8; bạch kim giảm 2% xuống 890.47 USD/ounce, và tính chung cả tuần giảm khoảng 6% - nhiều nhất kể từ tháng 11/2015. Palađi cũng giảm 3,3% xuống 1.741,65 USD, tính chung cả tuần giảm làn đầu tiên trong vòng 5 tuần.
Kim loại quý: Giá giảm
Phiên cuối tuần, giá nhôm giảm từ mức cao nhất trong vòng gần 2 tháng do đồng USD tăng lên mức cao nhất trong vòng hơn 3 tuần.
Trên sàn London, nhôm kỳ hạn giao sau 3 tháng giảm 0,3% xuống 1.807,5 USD/tấn, sau khi có lúc chạm 1.822 USD, mức cao nhất kể từ ngày 12/9.
Giá nhôm đã tăng 6% trong 2 tuần qua, phần lớn bởi các nhà đầu tư mua trở lại. Nhưng thị trường toàn cầu dự đoán sẽ chuyển sang trạng thái dư thừa vào năm tới, theo kết quả thăm dò của Reuters.
Giá sắt thép cũng giảm. Tại Trung Quốc, quặng sắt chạm mức thấp nhất 3 tuần và có tuần sụt giảm thứ 2 liên tiếp, do triển vọng nhu cầu thép yếu trong mùa đông.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên lúc đóng cửa giảm 2,8% xuống 600 CNY (85,95 USD)/tấn, sau khi có lúc chạm 599,5 CNY, thấp nhất kể từ ngày 18/10. Quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn giao dịch Singapore giảm 2,2% xuống 78,58 USD/tấn. Thép thanh trên sàn Thượng Hải giảm 0,8%, trong khi thép cuộn cán nóng giảm 0,9%.
Lượng sắt lưu trữ tại các cảng của Trung Quốc tăng lên gần mức cao nhất trong 6 tháng giữa bối cảnh triển vọng nhu cầu thấp trên toàn cầu là những yếu tố chính gây áp lực giảm. Nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc trong tháng 10 giảm lần đầu tiên trong 4 tháng do lợi nhuận thấp làm hạ bớt nhu cầu đối với nguyên liệu thô tại các nhà máy thép.
Tập đoàn Westpac Banking của Australia giữ nguyên dự báo giá quặng sắt cuối năm nay ở mức 90 USD/tấn trong năm 2019 và 65 USD/tấn trong năm 2020.
Nông sản: Giá hầu hết giảm
Trên sàn giao dịch hàng hóa Chicago, giá các loại nông sản giảm trong phiên giao dịch cuối tuần do thiếu vắng những thông tin tích cực.
Kết thúc phiên này, ngô kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 3,08% (12 US cent) xuống 3,7725 USD/bushel; lúa mỳ kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 5,75 US cent hay 1,11% xuống 5,1025 USD/bushel, trong khi đậu tương kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 5,75 US cent, hay 0,61% và khép lại tuần giao dịch ở mức 9,31 USD/bushel. Tính chung cả tuần, cả 3 loại đều giảm giá.
Tuần qua chứng khiến giá đậu tương và lúa mỳ đảo chiều liên tục do chịu tác động từ cả thông tin tích cực và tiêu cực. Đáng chú ý, giá ngô giảm liên tục trong bốn phiên đầu tuần, nối dài chuỗi giảm giá lên sáu phiên liên tiếp, do dự báo sản lượng vụ mùa của Mỹ tăng và những lo ngại về nhu cầu “ảm đạm” đối với loại hàng hóa này trên thị trường xuất khẩu. Phải đến phiên cuối tuần, giá ngô mới tăng nhẹ sau khi báo cáo vụ mùa của chính phủ hạ dự báo sản lượng của Mỹ. Trong báo cáo về cung cầu thế giới tháng 11/2019, Bộ Nông nghiệp Mỹ dự đoán sản lượng ngô của nước này trong vụ mùa năm nay đạt 13,661 tỷ bushel, giảm so với dự báo đưa ra hồi tháng 10/2019 là 13,779 tỷ bushel.
Cũng phiên cuối tuần, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,35 US cent hay 0,3% lên 1,0945 USD/lb sau khi phá vỡ mức cao nhất trong 4 tháng là 1,0975 USD. Tính chung cả tuần, giá cà phê arabica tăng 5,2%. Robusta kỳ hạn tháng 1/2020 cùng phiên tăng 6 USD hay 0,44% lên 1.384 USD/tấn.
Đồng real bị áp lực giảm giá trong tuần qua khi cuộc bán đấu giá dầu mỏ lớn nhất từ trước tới nay của Brazil không gây được ấn tượng.
Với mặt hàng đường, đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 0,18 US cent hay 1,45% lên 12,57 US cent/lb, đường trắng kỳ hạn tháng 12/2020 cũng tăng 3,1 USD hay 0,4% lên 335,0 USD/tấn.
Riêng cao su giảm trong phiên cuối tuần. Trên sàn Tokyo, cao su kỳ hạn tháng 4/2020 giảm 1,6 JPY xuống 177,3 JPY (1,62 USD)/kg. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá vẫn tăng 3%. 
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 2/11

Giá 9/11

9/11 so với 8/11

9/11 so với 8/11 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,20

57,24

+0,09

+0,16%

Dầu Brent

USD/thùng

61,69

62,51

+0,22

+0,35%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

38.160,00

38.880,00

+340,00

+0,88%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,71

2,79

+0,02

+0,61%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

165,57

163,37

-0,18

-0,11%

Dầu đốt

US cent/gallon

193,31

191,81

-0,22

-0,11%

Dầu khí

USD/tấn

578,00

576,50

-6,75

-1,16%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

55.400,00

55.860,00

+290,00

+0,52%

Vàng New York

USD/ounce

1.511,40

1.462,90

-3,50

-0,24%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.250,00

5.118,00

-32,00

-0,62%

Bạc New York

USD/ounce

18,05

16,82

-0,19

-1,10%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,90

59,10

-0,80

-1,34%

Bạch kim

USD/ounce

950,24

887,21

-22,59

-2,48%

Palađi

USD/ounce

1.807,90

1.746,56

-55,43

-3,08%

Đồng New York

US cent/lb

265,30

268,20

-4,55

-1,67%

Đồng LME

USD/tấn

5.850,00

5.924,00

-50,00

-0,84%

Nhôm LME

USD/tấn

1.786,00

1.807,50

-5,50

-0,30%

Kẽm LME

USD/tấn

2.520,00

2.482,00

-3,00

-0,12%

Thiếc LME

USD/tấn

16.525,00

16.700,00

+125,00

+0,75%

Ngô

US cent/bushel

389,25

377,25

+2,00

+0,53%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

516,00

510,25

-2,25

-0,44%

Lúa mạch

US cent/bushel

306,00

304,25

-1,00

-0,33%

Gạo thô

USD/cwt

11,99

12,04

+0,01

+0,08%

Đậu tương

US cent/bushel

936,75

931,00

-5,50

-0,59%

Khô đậu tương

USD/tấn

303,90

304,90

-0,70

-0,23%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,03

31,50

+0,07

+0,22%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

458,20

463,30

+2,10

+0,46%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.501,00

2.498,00

+48,00

+1,96%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

104,00

112,85

+0,25

+0,22%

Đường thô

US cent/lb

12,48

12,57

+0,18

+1,45%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

99,10

100,30

+0,75

+0,75%

Bông

US cent/lb

64,23

66,57

+0,53

+0,80%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

412,80

393,00

-0,30

-0,08%

Cao su TOCOM

JPY/kg

172,90

178,80

+1,50

+0,85%

Ethanol CME

USD/gallon

1,45

1,42

+0,01

+0,93%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg