Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khi hệ thống đường ống dẫn nhiên liệu lớn nhất của Mỹ do công ty Colonial Pipeline điều hành có thể khởi động lại phần lớn hoạt động trong tuần này.
Kết thúc phiên này, dầu Brent tăng 4 US cent (0,1%) lên 68,32 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 2 US cent (0,03%) lên 64,92 USD/thùng.
Tuần trước, giá cả 2 loại dầu này đều tăng hơn 1%, là tuần thứ 2 tăng giá liên tiếp. Tính từ đầu năm đến nay, giá dầu Brent tăng hơn 30% do Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, được gọi là OPEC+ cắt giảm nguồn cung và việc nới lỏng các hạn chế virus corona tại Mỹ và châu Âu.
Phó Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ, bà Elizabeth Sherwood-Randall, cho biết Tổng thống Mỹ Joe Biden liên tục cập nhật thông tin về vụ tấn công mạng tới đường ống dẫn dầu - vốn đe dọa tới hoạt động cung cấp xăng dầu tới nhiều khu vực ở bờ Đông của nước này.
Nhà phân tích Carsten Fritsch của trung tâm Commerzbank cho biết, nếu đường ống này tiếp tục ngừng hoạt động sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến thị trường dầu mỏ không chỉ ở Mỹ mà còn ở châu Âu.
Công ty Colonial Pipeline cho biết đã bắt đầu giai đoạn khôi phục hoạt động và hy vọng có thể nối lại các hoạt động từ cuối tuần này. Thông báo của công ty cho biết các hoạt động đang được khôi phục sau vụ tấn công mạng trước đó. Colonial Pipeline vận chuyển xăng, dầu diesel, nhiên liệu máy bay và các sản phẩm tinh chế khác từ Vịnh Mexico tới bờ Đông đông dân của Mỹ thông qua đường ống dài 8.850 km, phục vụ 50 triệu khách hàng. Ngoài ra, hệ thống này cũng phục vụ một số sân bay lớn nhất của đất nước, trong đó có Hartsfield Jackson của Atlanta.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất gần 3 tháng do ố liệu việc làm tháng 4/2021 gây thất vọng của Mỹ đã tạo sức ép giảm cho đồng USD và củng cố kỳ vọng rằng lãi suất sẽ vẫn ở mức thấp.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,4%, lên 1.836,89 USD/ounce, sau khi có thời điểm chạm mức cao nhất kể từ ngày 11/2 là 1.845,06 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,3%, lên 1.837,60 USD/ounce.
Chiến lược gia hàng hóa Daniel Ghali của TD Securities cho biết, số lượng việc làm thấp hơn dự báo của Mỹ trong tháng 4/2021 đã trở thành “chất xúc tác” cho giá vàng. Báo cáo việc làm chính thức do Bộ Lao động Mỹ vừa công bố cuối tuần trước cho thấy, số việc làm phi nông nghiệp của nước này chỉ tăng 266.000 vị trí trong tháng trước, sau khi tăng 770.000 vào tháng Ba. Con số trên thấp hơn quá nhiều so với dự báo sẽ có 978.000 việc làm mới được tạo ra theo khảo sát của hãng tin Reuters. Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã tăng từ 6% trong tháng Ba lên 6,1% vào tháng Tư. Hàng triệu người Mỹ vẫn không có việc làm và nhiều người đã mất việc làm vĩnh viễn vì đại dịch.
Số lượng việc làm gây thất vọng làm đảo lộn kỳ vọng của các nhà đầu tư về sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế lớn nhất thế giới và khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể thắt chặt chính sách sớm hơn dự kiến.
Ông Ghali cho biết thêm rằng, đà tăng của giá vàng trong phiên vừa qua còn có tác động từ sự trở lại của dòng vốn tự do chảy vào vàng cùng với nhu cầu vàng vật chất mạnh mẽ từ Trung Quốc và Ấn Độ vào tháng trước, trước khi Ấn Độ thực hiện lệnh phong tỏa xã hội do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.
Fed đã cam kết giữ lãi suất ở mức thấp cho đến khi lạm phát và thị trường việc làm của Mỹ tăng lên. Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng vốn không sinh lợi.
Trong số những kim loại quý khác, giá palađi tăng 1,5% lên 2.971,39 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức cao nhất mọi thời đại vào tuần trước do lo ngại thiếu hụt nguồn cung. UBS đã nâng dự báo giá kim loại này vào cuối tháng 6 và cuối tháng 9/2021 lên 3.100 USD/ounce. Ngân hàng này dự kiến thị trường palađi sẽ thiếu khoảng 1 triệu ounce nguồn cung trong năm nay.
Trong khi đó, giá bạc giảm 0,2% xuống 27,39 USD/ounce, còn giá bạch kim tăng 0,8% lên 1.258,87 USD/ounce. Cả hai mặt hàng này trước đó đã đạt mức đỉnh hơn hai tháng.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm từ mức cao kỷ lục trước đó, theo xu hướng các tài sản rủi ro khác giảm như thị trường chứng khoán và giá dầu.
Theo đó, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London đạt mức cao kỷ lục 10.747,5 USD/tấn, sau khi lần đầu tiên phá kỷ lục cũ 1 thập kỷ trong ngày 7/5/2021. Tính từ đầu năm đến nay, giá đồng tăng gần 40%. Cũng trong phiên này, giá đồng tại Châu Âu giảm 0,4% xuống 10.374 USD/tấn.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 0,3% xuống 2.532 USD/tấn, giá kẽm giảm 0,9% xuống 2.987 USD/tấn và giá chì giảm 0,9% xuống 2.215,5 USD/tấn. Trong phiên có lúc, giá nhôm và kẽm đạt mức cao nhất 3 năm, giá chì tăng mạnh nhất kể từ tháng 10/2019.
Giá sắt thép phiên vừa qua tăng mạnh do nhu cầu tăng từ phía Trung Quốc.
Sau khi vượt ngưỡng 200 USD/tấn vào tuần trước, ngay lúc mở cửa phiên đầu tuần này (10/5), tiá quặng sắt giao sau tăng 10% chỉ trong vài phút đồng hồ, đạt mức cao kỷ lục 226 USD/tấn, trong bối cảnh nhu cầu bùng nổ ở Trung Quốc và xu hướng leo thang chóng mặt của giá hàng hoá cơ bản toàn cầu khi kinh tế thế giới hồi phục.
Xu hướng giá cao được duy trì trong suốt phiên. Kết thúc phiên này, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2021 trên sàn Đại Liên tăng 10% lên mức cao kỷ lục 1.326 CNY (206,3 USD)/tấn; giá quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2021 trên sàn Singapore tăng 9,5% lên 224,65 USD/tấn. Lượng quặng sắt lưu kho tại các cảng biển Trung Quốc tuần qua giảm 2,05 triệu tấn xuống 131,05 triệu tấn – thấp nhất gần 2 tháng, công ty Mysteel cho biết.
Quặng sắt tăng kéo giá thép tăng theo. Theo đó, giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2021 tăng 6% lên 6.012 CNY/tấn – mức cao kỷ lục; thép cuộn cán nóng cũng đạt mức cao kỷ lục 6.335 CNY/tấn; thép không gỉ kỳ hạn tháng 6/2021 tăng 2,6% lên 15.295 CNY/tấn.
Câu hỏi lớn nhất của năm 2021 là khi nào thì nhu cầu thép của Trung Quốc sẽ hạ nhiệt? “Đây là một mặt hàng đang rất, rất nóng”, nhà phân tích Vivek Dhar của Commonwealth Bank of Australia nói với hãng tin Bloomberg. “Nguồn cung vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu mạnh đến như vậy”.
Quặng sắt chỉ là một trong vô số nguyên vật liệu thô tăng giá mạnh trong những tháng gần đây, bên cạnh kim loại đồng và các loại nông sản. Một chỉ số đo giá nguyên vật liệu thô của hãng tin Bloomberg chốt tuần trước ở mức cao nhất trong gần 1 thập kỷ.
Trên thị trường nông sản, giá ngô tại Mỹ giảm sau khi tăng lên mức cao nhất 8 năm trong tuần trước, khi các nhà đầu tư tập trung vào báo cáo cung cầu toàn cầu của Bộ Nông nghiệp Mỹ.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 5/2021 giảm 20-1/2 US cent xuống 7,11-3/4 USD/bushel; giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2021 giảm 31-1/4 US cent xuống 7,3-1/2 USD/bushel; giá đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 2-1/2 US cent xuống 15,87-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn ICE không thay đổi ở mức 17,49 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2021 trên sàn London tăng 1,4 USD tương đương 0,3% lên 466,1 USD/tấn.
Cà phê phiên này cũng đi xuống. Theo đó, giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn ICE giảm 4,85 US cent tương đương 3,2% xuống 1,4805 USD/lb, trong phiên có lúc đạt 1,554 USD/lb – cao nhất kể từ tháng 1/2017. Giá cà phê Arabica giảm hơn 3% sau khi tăng mạnh lên mức cao nhất hơn 4 năm. Đồng thời, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn London giảm 21 USD tương đương 1,4% xuống 1.518 USD/tấn.
Giá cà phê giảm do triển vọng nhu cầu tại một số thị trường trọng điểm suy giảm, trong khi Fitch Solutions dự báo thiếu hụt cà phê toàn cầu niên vụ 2021/22 sẽ đạt 6,8 triệu bao (60 kg/bao) – mức cao nhất kể từ năm 2009/10, đã hạn chế đà suy giảm giá.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng sau khi Thủ tướng nước này cho biết, chính phủ có nguồn dự trữ có thể được sử dụng để hỗ trợ nền kinh tế khỏi sự tàn phá của đại dịch. Cụ thể, cao su kỳ hạn tháng 10/2021 trên sàn Osaka tăng 1,5 JPY tương đương 0,6% lên 257 JPY/kg; giá cao su kỳ hạn tháng 9/2021 trên sàn Thượng Hải tăng 0,9% lên 14.595 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 11/5/2021

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

64,78

-0,14

-0,22%

Dầu Brent

USD/thùng

68,13

-0,19

-0,28%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

43.830,00

-290,00

-0,66%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,91

-0,02

-0,68%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

212,75

-0,59

-0,28%

Dầu đốt

US cent/gallon

201,30

-0,36

-0,18%

Dầu khí

USD/tấn

554,00

+1,50

+0,27%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

59.480,00

-150,00

-0,25%

Vàng New York

USD/ounce

1.835,80

-1,80

-0,10%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.424,00

-7,00

-0,11%

Bạc New York

USD/ounce

27,37

-0,13

-0,46%

Bạc TOCOM

JPY/g

95,50

-1,50

-1,55%

Bạch kim

USD/ounce

1.246,70

-3,90

-0,31%

Palađi

USD/ounce

2.954,11

-8,89

-0,30%

Đồng New York

US cent/lb

471,75

+0,15

+0,03%

Đồng LME

USD/tấn

10.382,00

-35,00

-0,34%

Nhôm LME

USD/tấn

2.531,00

-9,00

-0,35%

Kẽm LME

USD/tấn

2.991,50

-23,50

-0,78%

Thiếc LME

USD/tấn

29.770,00

-45,00

-0,15%

Ngô

US cent/bushel

713,75

+2,00

+0,28%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

729,75

-0,75

-0,10%

Lúa mạch

US cent/bushel

410,00

-0,25

-0,06%

Gạo thô

USD/cwt

14,24

+0,03

+0,21%

Đậu tương

US cent/bushel

1.589,00

+1,50

+0,09%

Khô đậu tương

USD/tấn

442,00

-0,30

-0,07%

Dầu đậu tương

US cent/lb

63,71

-0,13

-0,20%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

721,00

-12,90

-1,76%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.514,00

+51,00

+2,07%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

148,05

-4,85

-3,17%

Đường thô

US cent/lb

17,49

0,00

0,00%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

116,55

+2,10

+1,83%

Bông

US cent/lb

88,47

-1,19

-1,33%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

1.607,50

-63,00

-3,77%

Cao su TOCOM

JPY/kg

174,10

-3,00

-1,69%

Ethanol CME

USD/gallon

2,34

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC / Reuters, Bloomberg