Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do lo ngại nguy cơ sẽ thiếu hụt xăng do tình trang gián đoạn tại hệ thống ống dẫn nhiên liệu lớn nhất nước Mỹ sau một vụ tấn công mạng.
Kết thúc hiên, giá dầu Brent Biển Bắc tăng 12 US cent, hay 0,3% lên 68,55 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 36 US cent, hay 0,6% lên 65,28 USD/thùng. Giá xăng Mỹ kỳ hạn cũng tăng 0,3% lên mức 2,1399 USD/gallon (1 gallon = 3,78 lít).
Ông Louise Dickson, chuyên gia về các thị trường dầu của công ty Rystad Energy cho rằng thị trường xăng dầu vẫn đang bị tác động bởi sự kiện trên vì bản chất của cuộc tấn công lần này và quy mô của đường ống dẫn đầu bị ảnh hưởng, dù nguy cơ trong ngắn hạn của nó không còn nhiều. Ông cho biết thị trường hiện đang lo ngại về khả năng tái diễn một sự kiện như vậy và mức độ nghiêm trọng của những cuộc tấn công trong tương lai.
Hai nguồn tin trong ngành dẫn số liệu của Viện Xăng dầu Mỹ cho biết lượng dầu thô dự trữ của Mỹ đã giảm 2,5 triệu thùng trong tuần trước, trong khi lượng xăng dự trữ tăng 5,6 triệu thùng.
Colonial Pipeline, đơn vị vận chuyển hơn 2,5 triệu thùng/ngày các sản phẩm xăng, dầu diesel và nhiên liệu máy bay, ngày 10/5 cho biết đang cố gắng để khôi phục phần lớn hoạt động trong tuần này. Sự gián đoạn nguồn cung nhiên liệu đã đẩy giá xăng lên các mức cao nhất trong nhiều năm qua và nhu cầu tăng vọt tại nhiều nơi khi nhiều người đổ xô đi dự trữ nhiên liệu.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) ngày 11/5 đã nâng dự báo nhu cầu đối với dầu thô của khối này thêm 200.000 thùng/ngày và giữ nguyên dự đoán nhu cầu dầu toàn cầu sẽ hồi phục mạnh mẽ trong năm nay.
Trong khi đó, tốc độ lây lan dịch COVID-19 nhanh chóng ở Ấn Độ đã làm gia tăng những lời kêu gọi phong tỏa quốc gia đông dân thứ hai thế giới này, và cũng là nước nhập khẩu và tiêu thụ dầu lớn thứ ba toàn cầu. Các công ty lọc dầu nhà nước lớn nhất của Ấn Độ đã bắt đầu giảm lượng dầu thô nhập khẩu do tình hình dịch bệnh đã làm giảm lượng nhiên liệu tiêu thụ tại nước này.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ tăng, làm giảm sức hấp dẫn của kim loại quý. Nhà đầu tư đang chờ đợi số liệu giá tiêu dùng của Mỹ để đánh giá tình hình lạm phát của nước này.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay 0,1% xuống 1.834,19 USD/ounce, trong phiên có lúc giảm 1% xuống mức thấp nhất trong phiên là 1.816,90 USD/ounce; vàng kỳ hạn tương lai giảm 0,1% xuống 1.836,1 USD/ounce.
Lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Mỹ đã tăng phiên thứ ba liên tiếp, làm tăng cơ hội chi phí nắm giữ những tài sản không sinh lời như vàng. Trong khi đó, chỉ số đồng USD chạm mức thấp của hơn hai tháng trong phiên này, giúp vàng hạn chế đà giảm trước đó.
Lukman Otunuga, nhà phân tích cấp cao thuộc FXTM nhận định nếu lợi suất trái phiếu tiếp tục tăng, giá vàng sẽ bị kéo xuống mức thấp bất chấp tâm lý rủi ro bao trùm thị trường.
Giới đầu tư hiện đang chờ đợi báo cáo về chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2021 của Mỹ, dự kiến được công bố trong ngày 12/5, để đánh giá liệu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có bắt đầu thay đổi lập trường của mình về lạm phát hay không.
Vào thời điểm chính phủ tăng cường các biện pháp kích thích mạnh mẽ, vàng được coi là “hàng rào” chống lại lạm phát.
Chủ tịch chi nhánh Fed tại Chicago, Charles Evans cho biết ngày 10/5 cho hay các quan chức Fed muốn thấy lạm phát cao hơn, lương và việc làm tăng nhiều hơn trong vài tháng trước khi cân nhắc điều chỉnh chính sách tiền tệ.
Về những kim loại quý khác, giá palađi giảm 1,1% xuống 2.928,00 USD/ounce, bạch kim giảm 0,6% xuống 1.240 USD/ounce; bạc giao ngay tăng 0,8% lên 27,54 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do dự báo nguồn cung giảm và nhu cầu mua vào tăng mạnh sẽ đẩy thị trường lên đỉnh cao mới. Theo đó, đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,8% lên 10.465 USD/tấn. Trong phiên trước đó, giá đồng đạt mức cao kỷ lục 10.747,5 USD/tấn. Trong khi đó, giá đồng kỳ hạn tháng 6/2021 trên sàn Thượng Hải giảm 1% xuống 76.000 CNY (11.819,23 USD)/tấn, sau khi giảm 2,5% trong đầu phiên giao dịch.
Tính từ đầu năm đến nay, giá đồng tăng gần 40%.
Giá đồng cũng được hỗ trợ bởi đồng USD suy yếu, đồng USD chạm mức thấp nhất 2,5 tháng khiến đồng mua bằng đồng USD rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Giá thép tại Trung Quốc tiếp tục lập mức kỷ lục cao mới do các mối lo ngại về hạn chế sản lượng và nhu cầu mùa vụ đạt mức cao đỉnh điểm, làm lu mờ việc điều chỉnh phí bởi sàn giao dịch.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2021 tăng phiên thứ 6 liên tiếp và tăng 4,6% lên 6.086 CNY (947,15 USD)/tấn. Giá thép cuộn cán nóng tăng 6,9% lên 6.540 CNY/tấn, trong phiên có lúc tăng lên 6.591 CNY/tấn. Giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 6/2021 tăng 1,6% lên 15.395 CNY/tấn. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2021 trên sàn Đại Liên tăng phiên thứ 4 liên tiếp, tăng 1,7% lên 1.307 CNY/tấn. Giá quặng sắt hàm lượng 62% nhập khẩu giao ngay sang ở cảng biển Trung Quốc tăng 19 USD lên 231 USD/tấn, theo số liệu của công ty tư vấn SteelHome.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương vượt ngưỡng 16 USD/bushel, ngô và lúa mì tăng
Giá đậu tương tại Mỹ tăng lên hơn 16 USD/bushel – lần đầu tiên – kể từ năm 2012, khi các thương nhân tập trung vào nguồn cung thắt chặt và thời tiết khô tại vành đai trồng ngô của Brazil.
Tại sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2021 tăng 27-1/4 US cent lên 16,14-3/4 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 16,25-1/2 USD/bushel – cao nhất kể từ tháng 9/2012. Giá ngô kỳ hạn tháng 7/2021 tăng 10-1/2 US cent lên 7,22-1/4 USD/bushel. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2021 tăng 11-1/4 US cent lên 7,41-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô đạt mức cao nhất 2,5 tháng, lên hơn 18 US cent/lb do mối lo ngại về năng suất cây trồng mía đường tại nước sản xuất hàng đầu – Brazil – và đồng real Brazil tăng mạnh.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn ICE tăng 3,3% lên 18,07 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2021 trên sàn London tăng 2,9% lên 479,4 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn ICE tăng 2,1% lên 1,5115 USD/lb, trong tuần trước đó đạt 1,554 USD/lb – cao nhất 4 năm; cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2021 trên sàn London tăng 0,9% lên 1.532 USD/tấn.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm sau khi Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) công bố biên bản cuộc họp hàng tháng cho rằng, các nhà hoạch định chính sách đang thận trọng về sự hồi phục của nước này sau đại dịch.
Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 10/2021 trên sàn Osaka giảm 4,8 JPY tương đương 1,9% xuống 252,2 JPY/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2021 trên sàn Thượng Hải giảm 2,6% xuống 14.165 CNY/tấn.
Các nhà hoạch định chính sách thuộc BoJ cảnh báo về những bất ổn đối với sự phục hồi nền kinh tế của nước này, khi các hạn chế đại dịch ảnh hưởng đến tiêu thụ dịch vụ.
Giá hàng hóa thế giới sáng 12/5/2021
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
65,39
|
+0,11
|
+0,17%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
68,66
|
+0,11
|
+0,16%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
44.160,00
|
+480,00
|
+1,10%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,94
|
-0,02
|
-0,58%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
213,85
|
-0,14
|
-0,07%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
204,18
|
+0,01
|
+0,00%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
556,25
|
+3,75
|
+0,68%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
59.720,00
|
+820,00
|
+1,39%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.831,20
|
-4,90
|
-0,27%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.406,00
|
-21,00
|
-0,33%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
27,49
|
-0,18
|
-0,64%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
96,10
|
+0,30
|
+0,31%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.232,34
|
-7,96
|
-0,64%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.942,54
|
+4,13
|
+0,14%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
478,10
|
+1,90
|
+0,40%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
10.460,00
|
+78,00
|
+0,75%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.521,00
|
-10,00
|
-0,40%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.009,00
|
+17,50
|
+0,58%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
29.842,00
|
+72,00
|
+0,24%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
728,25
|
+6,00
|
+0,83%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
749,00
|
+7,25
|
+0,98%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
410,50
|
+3,00
|
+0,74%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
14,15
|
+0,08
|
+0,57%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.630,00
|
+15,25
|
+0,94%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
448,20
|
+1,20
|
+0,27%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
65,57
|
+0,77
|
+1,19%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
745,00
|
+7,20
|
+0,98%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.466,00
|
-48,00
|
-1,91%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
150,10
|
+2,05
|
+1,38%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
18,10
|
+0,61
|
+3,49%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
115,75
|
-0,80
|
-0,69%
|
Bông
|
US cent/lb
|
88,14
|
+0,39
|
+0,44%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
1.544,50
|
-63,00
|
-3,92%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
171,40
|
-0,30
|
-0,17%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,34
|
0,00
|
0,00%
|