Giá lúa gạo ngày 19/6/2020

ĐVT: đồng/kg

Chủng loại

Ngày 19/6/2020

Thay đổi so với ngày 18/6/2020

NL IR 504

7.750 – 7.800

-50

TP IR 504

9.300

-50

Tấm 1 IR 504

7.600-7.650

0

Cám vàng

5.100 – 5.150

0

Sau một thời gian liên tục tăng, giá nhiều loại lúa tại ĐBSCL đã giảm 100-150 đồng/kg so với cách đây hơn 1 tuần. Ngày 18-6, giá lúa tươi IR50404 tại TP Cần Thơ và các tỉnh lân cận Hậu Giang, An Giang, Vĩnh Long… ở mức 5.200 đồng/kg; Giá nhiều loại lúa tươi hạt dài, như: OM 5451, OM 4218, OM 380, OM 18… đang ở mức 5.300- 5.700 đồng/kg. Gần đây, giá gạo xuất khẩu đã chững lại và giảm nhẹ nên nhiều tiểu thương, doanh nghiệp chủ động giảm giá thu mua lúa, gạo nguyên liệu, nhất là đối với các ruộng lúa chưa ký hợp đồng bao tiêu hoặc đặt tiền cọc. Để hạn chế rủi ro do lúa bị ướt và chất lượng lúa gạo bị giảm, thương lái cũng giảm giá thu mua lúa đối với những diện tích lúa Hè Thu 2020 bị mưa gió làm đổ ngã nhiều hoặc lúc thu hoạch gặp phải trời mưa.

Tuy có giảm nhưng nhìn chung giá nhiều loại lúa vẫn còn ở mức cao hơn 500-700 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Nông dân sản xuất lúa Hè Thu vẫn đảm bảo có được mức lời khá cao so cùng kỳ nhờ lúa trúng mùa và bán được giá.
Vụ Đông Xuân 2019 - 2020, toàn vùng Tây Nam Bộ xuống giống khoảng 1,6 triệu ha. Dù diện tích giảm 68.500 ha so với vụ trước, nhưng năng suất đạt 68,54 tạ/ha, tăng 1,23 tạ/ha; sản lượng ước đạt trên 11 triệu tấn. Tính chung cả nước, 6 tháng đầu năm 2020, ước sản xuất đạt 20,2 triệu tấn lúa, đạt 98,5% so với cùng kỳ năm 2019. Không chỉ bảo đảm đáp ứng đầy đủ nhu cầu lương thực trong nước, mà còn phục vụ một phần cho xuất khẩu.
5 tháng đầu năm 2020 xuất khẩu gạo tăng cả về lượng, giá và kim ngạch so với 5 tháng đầu năm 2019, đạt 3,09 triệu tấn, tăng 12%, thu về 1,5 tỷ USD, tăng 26,6% và giá trung bình 485,1 USD/tấn, tăng 13%. Riêng tháng 5/2020 xuất khẩu 953.950 tấn, tương đương 492,54 triệu USD, giá 516,3 USD/tấn, tăng 87% về lượng, tăng 93,6% về kim ngạch và tăng 3,6% về giá so với tháng 4/2020 còn so với cùng tháng năm 2019 thì cũng tăng các mức tương ứng 40,6%, 67,6% và 19,2%.

Nguồn: VITIC