Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng theo đà đi lên của thị trường chứng khoán và IEA nâng dự báo nhu cầu dầu mỏ năm 2020.
Thị trường hàng hóa bắt đầu lo ngại khii số ca nhiễm COVID-19 trên toàn cầu đã tăng lên hơn 8 triệu ca trên trong tuần này, với sự gia tăng mạnh ở Mỹ Latin, trong khi Mỹ và Trung Quốc đang ứng phó với các đợt bùng phát mới.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng 1,24 USD/thùng, hay 3,1%, lên 40,96 USD/thùng, dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,26 USD/thùng, hay 3,4%, lên 38,38 USD/thùng.
Chứng khoán phố Wall tăng điểm sau khi số liệu từ Mỹ cho thấy doanh số bán lẻ tăng kỷ lục trong tháng 5/2020, đem lại hy vọng kinh tế nước này sẽ hồi phục nhanh sau đại dịch. Bên cạnh đó, tâm lý nhà đầu tư còn được thúc đẩy bởi số liệu cho thấy tỷ lệ tử vọng do dịch COVID-19 giảm xuống khi thử nghiệm một loại thuốc mới.
Trong báo cáo mới nhất, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự đoán nhu cầu dầu toàn cầu trong năm 2020 sẽ ở mức 91,7 triệu thùng/ngày, cao hơn 500.000 thùng/ngày so với dự báo đưa ra hồi tháng 5/2020, do hoạt động tiêu dùng mạnh hơn dự đoán trong thời gian phong tỏa do dịch COVID-19. IEA cho biết sản lượng dầu thế giới trong tháng 5 giảm gần 12 triệu thùng/ngày, trong đó OPEC+ giảm sản lượng 9,4 triệu thùng/ngày, điều đó có nghĩa OPEC+ tuân thủ 89% với thỏa thuận giảm sản lượng trong tháng này.
Tuy nhiên, IEA nhận định sự sụt giảm trong hoạt động hàng không do dịch bệnh sẽ khiến nhu cầu dầu của thế giới không thể quay về các mức trước đại dịch vào trước năm 2022. Sự phục hồi hoàn toàn của nền kinh tế Mỹ sẽ chưa đến cho tới khi người Mỹ chắc chắn rằng dịch bệnh đã được kiểm soát.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do lo ngại về đợt bùng phát dịch COVID-19 mới tại Trung Quốc.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,09% lên 1.726,17 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 0,5% lên 1.736,50 USD/ounce.
Các yếu tố cơ bản đối với vàng là mạnh, dựa vào lãi suất thấp và tình trạng đại dịch COVID-19 không rõ ràng.
Alex Turo, chiến lược gia thị trường thuộc RJO Futures, nhận định vàng đang tăng giá sau khi Bắc Kinh nâng mức báo động khẩn cấp về dịch COVID-19 từ cấp độ III lên II, do có hơn 100 ca nhiễm mới được xác nhận trong vài ngày gần đây, đồng thời thắt chặt các biện pháp, đóng cửa trường học và khuyên mọi người không rời khỏi thành phố này trừ khi cần thiết.
Về những kim loại quý khác, giá palađi tăng 1,54% lên 1.936,81 USD/ounce, sau khi có thời điểm chạm mức cao nhất kể từ ngày 10/6 là 1.965,21 USD/ounce, còn giá bạch kim tăng 1,52% lên 823,86 USD/ounce và giá bạc giao ngay tăng nhẹ 0,1% lên 17,45 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do động thái mới nhất của Cục dự trữ liên bang Mỹ - công bố thêm biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, đà tăng bị hạn chế bởi lo lắng về triển vọng nhu cầu tại Trung Quốc, nước tiêu thụ hàng đầu thế giới.
Trên sàn giao dịch kim loại London, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng tăng 0,3% lên 5.722 USD/tấn so với mức cao trước đó là 5.836 USD/tấn. Giá đồng tuần trước đã tăng lên 5.928 USD/tấn, cao nhất kể từ 24/1 và tăng 35% kể từ giữa tháng 3.
Chính sách kích thích của Fed đã gây áp lực cho USD, đồng tiền này giảm giá khiến các hàng hóa định giá bằng USD rẻ hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác. Các nhà máy của Trung Quốc tăng cường sản xuất tháng thứ 2 liên tiếp trong tháng 5, mặc dù yếu hơn dự kiến.
Để giá đồng giữ vững ở mức này hoặc vượt ngưỡng 6.000 USD, cần phải có bằng chứng chắc chắn nhu cầu của Trung Quốc sẽ tăng lên.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm tăng 1,2% lên 1.596 USD/tấn, kẽm tăng 0,8% lên 1.999 USD/tấn, chì tăng 1,5% lên 1.764 USD/tấn và nickel tăng 2,1% lên 13.005 USD/tấn.
Trong nhóm sắt thép, giá quặng sắt tại Trung Quốc và Singapore đều tăng do nhu cầu mạnh từ các nhà máy thép Trung Quốc và lo ngại về nguồn cung.
Quặng sắt trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc, lúc đóng cửa tăng 1% lên 781 CNY (110,37 USD)/tấn, trong khi quặng sắt trên sàn giao dịch Singapore tăng 2,3% lên 102,79 USD/tấn. Giá thép thanh trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 0,1%, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,1% và thép không gỉ tăng 0,3%.
Nhu cầu quặng sắt mạnh của các nhà máy thép đã giảm tồn kho nguyên liệu này, xuống 107,75 triệu tấn trong tuần trước, mức thấp nhất kể từ tháng 10/2016, số liệu từ SteelHome.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 5 tăng 8,5% so với một tháng trước lên kỷ lục 92,4 triệu tấn trong bối cảnh xây dựng bùng nổ bởi các chương trình phục hồi nền kinh tế trong nước bị ảnh hưởng bởi virus corona. Sản lượng thép thanh hàng tuần của 137 nhà sản xuất thép Trung Quốc đạt 3,99 triệu tấn trong tuần 4-10/6, theo khảo sát của Mysteel, mức hàng tuần cao nhất kể từ đầu năm 2015.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ giao dịch trên sàn Chicago giảm nhẹ sau một phiên giao dịch sôi động khi Bộ Nông nghiệp Mỹ báo cáo tình trạng vụ mùa không tốt do thời tiết nóng gần đây trên khắp vàng đai trồng ngô phía tây. Lúa mì giảm khi thu hoạch vụ đông đang diễn ra, đậu tương vẫn giảm. Kết thúc phiên giao dịch, giá ngô trên sàn Chicago giảm 1/4 US cent xuống 3,28 USD/bushel sau khi đạt 3,34-1/2 USD, cao nhất kể từ ngày 8/6; lúa mì giảm 8-3/4 US cent xuống 4,96 USD/bushel, giảm cao nhất một ngày kể từ ngày 13/5; đậu tương giảm 2 US cent xuống 8,67 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 tăng 0,15 US cent hay 1,2% lên 12,19 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 đóng cửa tăng 6,1 USD hay 1,6% lên 389,9 USD/tấn.
Chứng khoán toàn cầu tăng sau Cục dự trữ liên bang Mỹ tăng cường kích thích kinh tế và giá dầu tăng, cản trở các nhà máy tại Brazil tăng cường sản xuất đường giữa bối cảnh giá đường đang hướng tới xu hướng tăng. Brazil đã bán gần hết sản lượng của họ, nhưng cảnh báo sự gia tăng sẽ bị hạn chế do sản lượng tăng tại Brazil và Ấn Độ trong năm nay và tăng trưởng tiêu thụ rất ít.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7 đóng cửa giảm 0,35 US cent hay 0,4% xuống 93,65 US cent/lb, thấp nhất kể từ ngày 17/10/2019; cà phê robusta kỳ hạn tháng 7 giảm 17 USD hay 1,5% xuống 1.148 USD/tấn.
Các đại lý cho biết triển vọng giá vẫntiêu cực khi vụ thu hoạch tại Brazil đang tiến triển tốt và thời tiết thuận lợi ở Trung Mỹ cũng như ở Việt Nam và Indonesia có thể thúc đẩy triển vọng sản lượng. Dự trữ cà phê tại Mỹ tăng tháng thứ 2 liên tiếp. Sự gia tăng này diễn ra khi hầu hết các quán cà phê của Mỹ đang hoạt động ở tình trạng rất hạn chế hay bị đóng cửa hoàn toàn do phong tỏa.
Giá cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) tăng lần đầy tiên trong 4 ngày, do khởi đầu chính thức của chương trình mua trái phiếu doanh nghiệp từ Cục dự trữ liên bang Mỹ đã làm giảm bớt lo ngại xung quanh sự phục hồi ca nhiễm virus corona mới. Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 11 đóng cửa tăng 3,3 JPY hay 2,1% lên 157,6 JPY/kg. Giá cao su giao tháng 9 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,3% lên 10.335 JPY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 17/6/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

37,49

-0,89

-2,32%

Dầu Brent

USD/thùng

40,20

-0,76

-1,86%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

27.280,00

-270,00

-0,98%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,62

+0,00

+0,25%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

118,21

-2,52

-2,09%

Dầu đốt

US cent/gallon

116,91

-1,31

-1,11%

Dầu khí

USD/tấn

345,50

-0,50

-0,14%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

38.960,00

-320,00

-0,81%

Vàng New York

USD/ounce

1.734,40

-2,10

-0,12%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.954,00

+2,00

+0,03%

Bạc New York

USD/ounce

17,61

-0,05

-0,27%

Bạc TOCOM

JPY/g

60,30

+0,10

+0,17%

Bạch kim

USD/ounce

821,30

-3,78

-0,46%

Palađi

USD/ounce

1.924,66

-13,38

-0,69%

Đồng New York

US cent/lb

258,55

-0,25

-0,10%

Đồng LME

USD/tấn

5.728,50

+21,00

+0,37%

Nhôm LME

USD/tấn

1.597,50

+20,50

+1,30%

Kẽm LME

USD/tấn

1.995,50

+13,00

+0,66%

Thiếc LME

USD/tấn

16.920,00

+75,00

+0,45%

Ngô

US cent/bushel

332,50

-1,75

-0,52%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

500,25

-1,00

-0,20%

Lúa mạch

US cent/bushel

302,75

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

11,99

-0,04

-0,37%

Đậu tương

US cent/bushel

871,00

-2,00

-0,23%

Khô đậu tương

USD/tấn

295,40

-0,30

-0,10%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,74

-0,06

-0,21%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

474,50

+0,10

+0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.269,00

+3,00

+0,13%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

95,60

-0,30

-0,31%

Đường thô

US cent/lb

12,28

+0,15

+1,24%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

115,95

-2,60

-2,19%

Bông

US cent/lb

58,85

-0,23

-0,39%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

373,40

+12,10

+3,35%

Cao su TOCOM

JPY/kg

156,40

-1,20

-0,76%

Ethanol CME

USD/gallon

1,20

+0,04

+3,45%

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg