Chỉ số chứng khoán Dow Jones giảm 2,5% xuống 592,05 điểm, S&P 500 mất 1,8% xuống 2.823,16 điểm, Nasdaq Composite giảm 1%, về mức 8.560,73. Mặc dù vậy, Dow Jones hiện vẫn cao hơn 29% so với mức thấp trong ngày 23/3, trong khi S&P 500 cao hơn 28,8%.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) giảm xuống dưới 0 USD/thùng lần đầu tiên trong lịch sử và chốt phiên ở mức âm 37,63 USD/thùng trong bối cảnh tình trạng dôi dư nguồn cung đang tiếp tục trầm trọng do tác động của đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 5/2020 trên sàn Nymex của New York mất 55,90 USD (tương đương 306%), xuống -37,63 USD/thùng. Hợp đồng này đáo hạn trong phiên vừa qua – 20/4. Đây là phiên giảm giá kỷ lục của loại dầu này kể từ khi bắt đầu ghi nhận số liệu vào năm 1983, và cũng ghi nhận mức đóng cửa thấp chưa từng thấy, sau khi có thời điểm giữa phiên giảm chỉ còn -40,32 USD/thùng. Dầu WTI các kỳ hạn khác cũng đồng loạt đi xuống, với kỳ hạn giao tháng 6/2020 hạ 4,60 USD (tương đương 18,3%) xuống 20,03 USD/thùng; giao tháng 7 cũng giảm 6,9%.
Sự chênh lệch giữa giá dầu giao tháng Năm và tháng Sáu tại một thời điểm đã mở rộng đến 60,76 USD/thùng, mức chênh lệch lớn nhất trong lịch sử của hai hợp đồng dầu hàng tháng liền nhau.
Tại thị trường London, giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 6/2020 cũng giảm 2,51 USD (9%), xuống còn 25,57 USD/thùng. Các chuyên gia phân tích cho biết, dầu Brent được vận chuyển bằng đường biển nhiều hơn dầu WTI, vốn thường được vận chuyển thông qua đường ống dẫn, bởi vậy giá dầu này phần nào ít chịu tác động ngay lập tức bởi những lo ngại về lượng dự trữ dồi dào.
Các nhà tinh chế dầu mỏ đang giảm mạnh khối lượng dầu thô mua vào vì tiêu thụ sản phẩm tinh lọc rất chậm khi cả thế giới ở nhà để ngăn ngừa sự lây lan của dịch COVID-19. Do đó, hàng trăm triệu thùng dầu đang phải chứa trong các kho dự trữ trên toàn thế giới. Các thương nhân phải thuê tàu chỉ để trữ số dầu thừa trên biển. Lần đầu tiên trong lịch sử, 160 triệu thùng dầu đang chứa trong các tàu chở dầu trên khắp thế giới.
Các báo cáo hàng tháng từ Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho thấy nhu cầu dầu thô giảm mạnh, ngay cả khi các nhà sản xuất dầu chủ chốt đã đạt được một thỏa thuận lịch sử để cắt giảm sản lượng 10 triệu thùng/ngày, trong nỗ lực chấm dứt cuộc chiến giá dầu giữa Saudi Arabia và Nga, qua đó ổn định giá dầu đang biến động.
Dự trữ dầu thô của Mỹ tại Cushing, Oklahoma, kho cảng phân phối dầu thô Mỹ, đã tăng 9% lên 61 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 17/4.
Ngoài ra, nhà đầu tư cũng lo ngại khi Thượng viện phản đối về gói hỗ trợ tiếp theo cho doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, Thượng viện vào chiều ngày 21/4 sẽ tổ chức một cuộc bỏ phiếu về vấn đề này.
Các số liệu kinh tế yếu kém trên toàn cầu cũng gây áp lực lên giá dầu mỏ. Nền kinh tế Đức đang trong thời kỳ suy thoái nghiêm trọng và sự phục hồi dường như không thể diễn ra nhanh chóng do các hạn chế liên quan đến dịch COVID-19 có thể tồn tại trong một thời gian dài. Trong khi đó, xuất khẩu của Nhật Bản giảm mạnh nhất trong gần bốn năm trong tháng 3/2020.
Một số nguồn tin cho rằng chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump có thể hỗ trợ thị trường dầu mỏ bằng cách đề nghị trả tiền cho các nhà sản xuất để kìm hãm sản xuất dầu thô. Bên cạnh đó, ngoài việc OPEC và các đồng minh cắt giảm sản lượng, nhiều khả năng vào ngày 21/4, Ủy ban Đường sắt (RRC) Texas, cơ quan điều tiết ngành công nghiệp dầu khí tại bang này, có thể hành động để hạn chế sản lượng trong khu vực.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do chứng khoán đi xuống vì ảnh hưởng của thị trường năng lượng. Các nhà đầu tư lại tìm tới những tài sản an toàn như vàng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.692,26 USD/ounce; trong phiên giá biến động mạnh, có lúc giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 9/4 là 1.670,55 USD/ounce, nhưng có thời điểm đạt 1.670,55 USD, mức cao nhất kể từ 9/4 và tăng 1% so với phiên trước; vàng kỳ hạn tháng 6/2020 cũng tăng 0,7% và khép phiên ở mức 1.711,20 USD/ounce.
Edward Moya, chuyên gia phân tích thị trường cấp cao của OANDA, cho rằng giá vàng đang trong xu hướng tăng bởi những biện pháp kích thích tiền tệ chưa từng có trên toàn cầu sẽ còn tiếp diễn và biến động mang tính lịch sử trong ngành dầu mỏ cho thấy hoạt động kinh tế toàn cầu còn lâu mới có thể phục hồi trở lại bình thường.
Kết quả một cuộc khảo sát mới đây của ngân hàng Deutsche Bank cho thấy thị trường đã trở nên thiếu tự tin hơn nhiều về khả năng châu Âu và Mỹ sẽ khôi phục lại hoạt động kinh doanh trước mùa Hè, dù nhiều nước đang bắt đầu dần mở cửa trở lại nền kinh tế.
Về những kim loại quý khác, giá palađi tăng 0,1% lên 2.158,34 USD/ounce, bạch kim giảm 0,2% xuống 773,88 USD/thùng, trong khi bạc tăng 1% lên 15,28 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nickel tăng lên mức cao nhất trong vòng hơn 1 tháng sau khi hãng khai mỏ Vale giảm triển vọng về sản lượng hàng năm đối với nguyên liệu sản xuất thép không gỉ này do ảnh hưởng của COVID-19.
Kết thúc phiên giao dịch, trên sàn London, nickel kỳ hạn giao sau 3 tháng tăng 4% lên 12.520 USD/tấn, đầu phiên có lúc đạt mức cao nhất kể từ 13/3 là 12.535 USD/tấn. Nhu cầu nickel của Trung Quốc tăng nhẹ trong tháng 3 khi nước này bắt đầu mở cửa trở lại nền kinh tế.
Giá thép không gỉ lúc đầu phiên giao dịch vừa qua tăng mạnh thêm 4,4% lên 13.390 CNY/tấn do giá nickel ở Trung Quốc tăng bởi lo ngại nguồn cung khan hiếm. Lượng quặng nickel tập kết ở 14 cảng biển Trung Quốc tính tới 10/4 giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 6/2018, là 9,46 triệu tấn, theo số liệu mới nhất của Antaike.
Các loại thép khác giảm giá trong phiên vừa qua. Cụ thể, trên sàn Thượng Hải, thép cây kỳ hạn giao tháng 10 giảm 1,1% xuống 3.362 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 0,8% xuống 3.218 CNY/tấn.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc phiên vừa qua đạt mức cao nhất 8,5 tháng do mỏ Vale SA hạ triển vọng sản lượng do dịch Covid-19. Kết thúc phiên giao dịch, quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Địa Liên tăng 1,7% lên 624 CNY (88,18 USD)/tấn. Quặng sắt nhập khẩu hàm lượng 62% giao ngay tới Trung Quốc phiên liền trước (17/4) tăng 0,5 USD lên 87 USD/tấn.
Hãng Vale của Brazil mới đây đã hạ dự báo về sản lượng quặng sắt bột hàng năm xuống khoảng 310- 330 USD/tấn, từ mức 340 – 355 USD/tấn trước đây, và quặng sắt viên từ 44 triệu tấn xuống 40 triệu tấn.
Trên thị trường nông sản, giá ngô trên sàn Chicago giảm 2,6% trong phiên vừa qua, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9/2009 do giá dầu thô giảm khiến nhu cầu ethanol cũng sẽ giảm theo.
Kết thúc phiên giao dịch, ngô kỳ hạn giao tháng 5 giảm 8 US cent xuống 3,14-1/4 USD/bushel, trong phiên có lúc giá chạm mức thấp nhất kể từ 21/9/2009 là 3,1 USD.
Giá lúa mì xuất khẩu của Nga – nước xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới - tăng trong tuần vừa qua do lo ngại về nguồn cung sau thời điểm 15/5, trong bối cảnh quan chức ngành Nông nghiệp nước này dự kiến hạn ngạch xuất khẩu của giai đoạn tháng 4-6/2020 sẽ được sử dụng hết sớm trước khi kết thúc tháng 6.
Giá lúa mì Nga hàm lượng 12,5% protein kỳ hạn giao gần nhất tại các cảng Biển Đen đã tăng 6 USD lên 231 USD/tấn (FOB) trong tuần qua. Lúa mạch cũng tăng 3 USD lên 180 USD/tấn.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Nga, Oksana Lut, ngày 17/4 cho biết, nước ông sẽ dừng xuất khẩu lúa mì cho đến tháng 7/2020 nếu đã xuất khẩu hết hạn ngạch – dự kiến vào giữa tháng 5/2020, và sẽ không có ngoại lệ cho bất kỳ doanh nghiệp nào. Mục tiêu nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trong giai đoạn dịch Covid-19,
Giá đường thô trên sàn liên lục địa ICE cũng như đường trắng trên sàn London đều giảm trong phiên vừa qua do tác động từ thị trường dầu mỏ.
Đường thô kỳ hạn tháng 5 đã mất gần 3% xuống 10,06 US cent/lb; trong khi đó đường trắng giảm hơn 3% xuống 329,1 USD/tấn.
Giá năng lượng yếu đang buộc các nhà chế biến mía Brazil phải giảm thiểu việc sản xuất ethanol để tập trung sản xuất đường, làm cho nguồn cung đường tăng lên.

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2020 giảm 2,3 US cent (2%) xuống 1,1525 USD/lb; robusta giao cùng kỳ hạn giảm 11 USD (0,9%) xuống 1.177 USD/tấn.

Giá cao su trên cả 2 sàn Tokyo và Thượng Hải đều tăng trong phiên vừa qua sau khi Trung Quốc hạ lãi suất cơ bản để kích thích nền kinh tế - bị ảnh hưởng nặng nề do Covid-19.
Kết thúc phiên giao dịch, cao su kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn TOCOM tăng 1 JPY lên 154,9 JPY (1,44 USD)/kg. Đầu phiên vừa qua, giá giảm xuống chỉ 152,8 JPY, nhưng nhanh chóng hồi phục lên 157,9 JPY vào đầu buổi chiều vừa qua – mức cao nhất kể từ 19/3.
Cao su giao cùng kỳ hạn trên sàn Thượng Hải tăng 95 CNY lên 10.140 CNY (1.434 USD)/tấn vào cuối phiên. Trên sàn Singapore, hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2020 cũng tăng 0,2% lên 112,3 US cent/kg.
Hãng sản xuất lốp xe hàng đầu Nhật Bản, Bridgestone Corp, ngày hôm qua thông báo sẽ tạm dừng hoạt động ở 11 nhà máy của hãng, trong đó có 8 nhà máy sản xuất lốp xe, kể từ cuối tháng 4/2020 đến đầu tháng 5/2020 để nguồn cung phù hợp với nhu cầu trong bối cảnh dịch Covid-19.
Giá hàng hóa thế giới sáng 21/4/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

-14,24

+23,39

+62,16%

Dầu Brent

USD/thùng

25,57

-2,51

-8,94%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

23.790,00

-300,00

-1,25%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,92

-0,01

-0,31%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

66,66

-0,17

-0,25%

Dầu đốt

US cent/gallon

89,21

+0,43

+0,48%

Dầu khí

USD/tấn

261,75

-13,75

-4,99%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

34.300,00

-580,00

-1,66%

Vàng New York

USD/ounce

1.707,50

-3,70

-0,22%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.850,00

+46,00

+0,79%

Bạc New York

USD/ounce

15,65

-0,10

-0,63%

Bạc TOCOM

JPY/g

53,00

+0,50

+0,95%

Bạch kim

USD/ounce

774,85

+0,67

+0,09%

Palađi

USD/ounce

2.177,39

+6,17

+0,28%

Đồng New York

US cent/lb

232,45

-1,25

-0,53%

Đồng LME

USD/tấn

5.211,00

+71,00

+1,38%

Nhôm LME

USD/tấn

1.507,00

-5,50

-0,36%

Kẽm LME

USD/tấn

1.958,00

+20,00

+1,03%

Thiếc LME

USD/tấn

15.070,00

+110,00

+0,74%

Ngô

US cent/bushel

322,25

-7,00

-2,13%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

547,50

+13,75

+2,58%

Lúa mạch

US cent/bushel

274,75

+2,75

+1,01%

Gạo thô

USD/cwt

14,56

+0,07

+0,45%

Đậu tương

US cent/bushel

836,25

-6,00

-0,71%

Khô đậu tương

USD/tấn

290,80

-2,30

-0,78%

Dầu đậu tương

US cent/lb

26,37

-0,30

-1,12%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

460,60

-3,00

-0,65%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2,258.00

+29.00

+1.30%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

2.358,00

-10,00

-0,42%

Đường thô

US cent/lb

115,25

-2,30

-1,96%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

10,26

-0,27

-2,56%

Bông

US cent/lb

107,65

+0,25

+0,23%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

54,02

+1,16

+2,19%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

328,60

-18,00

-5,19%

Ethanol CME

USD/gallon

154,80

-0,10

-0,06%

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg