Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng gần 2% do nền kinh tế Mỹ phát đi các tín hiệu khởi sắc và nhu cầu đối với nhiên liệu gia tăng. Tuy nhiên, đà tăng của giá dầu vẫn bị hạn chế bởi việc một số bang tại Mỹ ghi nhận số ca nhiễm Covid-19 mới gia tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng 1,8% lên 41,05 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,9% lên 38,72 USD/thùng.
Lúc đầu phiên giao dịch vừa qua, giá dầu giảm, nhưng sau đó hồi phục trở lại bởi số liệu của Mỹ cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại nước này trong tuần trước đã giảm, trong khi số đơn hàng đặt mua các tư liệu sản xuất chủ chốt hồi phục trong tháng 5/2020. Tuy vậy, mức giảm trong số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tại Mỹ vẫn thấp hơn dự báo của giới phân tích. Bên cạnh đó, các dữ liệu khác cho thấy rất có khả năng Tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ có thể giảm 40% trong quý II/2020.
Phó Chủ tịch phụ trách mảng nghiên cứu thị trường của công ty Mỹ Tradition Energy, Gene McGillian, nhận định trong trường hợp số ca nhiễm Covid-19 tiếp tục gia tăng, rất có khả năng Mỹ phải tái áp đặt các biện pháp phong tỏa để ngăn chặn sự lây lan của bệnh dịch. Hiện một số bang của Mỹ, trong đó có Oklahoma, Texas và Florida, đã ghi nhận số ca nhiễm mới tăng mạnh.
Giới đầu tư càng thêm lo ngại về triển vọng nhu cầu dầu sau khi sau khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự báo nền kinh tế thế giới có thể sẽ rơi vào suy thoái sâu hơn dự tính trước đây.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm do đồng USD mạnh lên. Chỉ số dollar index đã tăng 0,2% trong phiên vừa qua.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay trên sàn London vững ở 1.762,11 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn New York giảm nhẹ 0,3% xuống 1.770,60 USD/ounce.
David Meger, Giám đốc mảng giao dịch kim loại thuộc High Ridge Futures, cho biết: "Thị trường đang theo dõi làn sóng lây nhiễm virus corona lần 2 trên thế giới để đánh giá mức độ tác động như thế nào tới mỗi khu vực kinh tế” và “Thị trường (vàng) có vẻ vẫn tiếp tục được hỗ trợ khi làn sóng Covid-19 thứ 2 đang lan khắp nơi gây lo ngại về triển vọng hồi phục kinh tế - điều luôn khiến nhu cầu đối với những tài an toàn như vàng gia tăng”.
Giá vàng chịu thêm sức ép khi Bộ Lao động Mỹ trong cùng ngày công bố báo cáo cho thấy đơn đặt mua hàng lâu bền tăng 15,8% trong tháng Năm. Bù lại, đà giảm của giá vàng phần nào được hạn chế khi một báo cáo của Bộ Lao động Mỹ cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ trong tuần kết thúc ngày 20/6 là 1,48 triệu, cao hơn dự kiến.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng Bảy tăng 22,5 US cent, hay 1,27%, chốt phiên ở mức 17,895 USD/ounce, trong khi bạch kim giao cùng kỳ hạn giảm 1,9 USD, hay 0,24%, chốt phiên ở mức 802,7 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng mặc dù thị trường có xu hướng chuyển sang những tài sản an toàn. Lý do giấ tăng bởi lo ngại về việc các mỏ đồng ở Chile tạm dừng hoạt động gây thiếu hụt nguồn cung. Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,4% lên 5.887,50 USD/tấn. Mức giá này cao hơn khoảng 35% so với thời điểm giá thấp nhất 45 tháng ở ngày 23/3.
Trên thị trường nông sản, giá ngô các kỳ hạn giao sau giảm xuống mức thấp nhất 6 tuần trong phiên giao dịch vừa qua, trông khi đậu tương giảm phiên thứ 4 liên tiếp bởi dự báo sản lượng ở khu vực Trung Tây nước Mỹ năm nay sẽ bội thu nhờ mưa thuận lợi. Đồng USD mạnh lên cũng góp phần gây áp lực giảm giá nông sản Mỹ - tính bằng USD.
Kết thúc phiên giao dịch, ngô kỳ hạn tháng 7 trên sàn Chicago giảm 7 US cent xuống 3,17-1/4 USD/bushel, mức thấp nhất trong vòng gần 2 tháng; đậu tương giao cùng kỳ hạn cũng giảm 1-1/2 US cent xuống 8,69-1/4 USD/bushel, riêng lúa mì đỏ mềm vụ Đông cũng giao tháng 7 tăng 5-1/2 US cent lên 4,86-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn giao tháng 7 tăng 0,06 US cent (0,5%) lúc kết thúc phiên giao dịch vừa qua, lên 11,81 US cent/lb, sau khi có thời điểm xuống thấp chỉ 11,65 US cent. Tuy nhiên, đường trắng kỳ hạn tháng 8/2020 giảm 0,1 USD xuống 356.6 USD/tấn.
Sản lượng đường của Ấn Độ trong năm marketing 2020/21 có thể tăng 12% so với năm trước, lên 30,5 triệu tấn (năm trước đạt 27,2 triệu tấn). Do đó, xuất khẩu đường dự báo cũng sẽ tăng lên, có thể gây áp lực lên giá đường thế giới – vốn đã chịu sức ép vì sản lượng của Brazil tăng.
Brazil và Australia đang trong vụ ép mía. Do tiêu thụ đường thế giới năm 2019/20 dự báo giảm do Covid-19, Rabobank giữ nguyên dự báo kém lạc quan về triển vọng thị trường đường trong ngắn hạn – cho rằng giá đường thô trong quý III/2020 sẽ ở mức 10,5 US cent/lb.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2020 giảm 2 US cent (2%) xuống 95,8 US cent/lb do các yếu tố cơ bản cho thấy nhu cầu yếu và sản lượng có thể đạt cao – sẽ tiếp tục gây áp lực lên giá. Robusta giao cùng kỳ hạn cũng giảm 22 US (1,9%) xuống 1.154 USD/tấn.
Ở Châu Á, giá cà phê Việt Nam tăng do nguồn cung khan hiếm, trong khi lượng tồn trữ ở Indonesia tiếp tục nhiều lên.
Người trồng cà phê ở Tây Nguyên chào bán cà phê nhân xô giá 32.000 đồng (1,38 USD)/kg, cao hơn mức 31.300-31.700 đồng cách đây một tuần. Với mức giá này, hầu hết người trồng cà phê lưỡng lự không muốn bán ra vì chi phí sản xuất đã 33.000 đồng cho mỗi kg.
Tuy nhiên, người mua (các thương gia) cho rằng với tình hình nhu cầu hiện tại thì giá đó là quá cao để đem lại lợi nhuận cho hộ. Nhìn chung các thương gia trong ngành cho biết chưa thấy có yếu tố nào sẽ tác động tới thị trường trong ngắn hạn, và giá sẽ vẫn khoảng 30.600 đồng – 32.000 đồng/kg trong tháng tới.
Trong khi đó, mức cộng cà phê robusta xuất khẩu loại 2 (5% đen và vỡ) của Việt Nam hiện là 240 USD/tấn (so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9 trên sàn London – ngày 24/6 là 1.176 USD/tấn), giảm so với mức cộng 250 – 260 USD/tấn cách đây một tuần.
Mức cộng cà phê Lamphung (Indonesia) tuần này không thay đổi so với tuần trước mặc dù nguồn cung tăng. Mức cộng này hiện là 340 USD/tấn (so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9 trên sàn London).
Giá cao su trên sàn Tokyo (TOCOM) gần như không thay đổi trong phiên giao dịch vừa qua, sau khi số ca nhiễm virus corona trên thế giới tăng lên và Quỹ Tiền tệ Quốc tế hạ triển vọng kinh tế toàn cầu. Kết thúc phiên giao dịch, cao su kỳ hạn tháng 12/2020 ở mức 157,4 JPY (1,47 USD)/kg, giảm 0,1 JPY so với phiên trước đó. Cao su kỳ hạn giao sau 1 tháng trên sàn Singapore (SICOM), kỳ hạn giao tháng 7, giảm nhẹ 0,4% xuống 113,6 U.S. cent/kg. Thị trường Trung Quốc đóng cửa nghỉ lễ.
Giá hàng hóa thế giới sáng 26/6/2020
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
39,18
|
+0,46
|
+1,19%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
41,05
|
+0,74
|
+1,84%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
27.730,00
|
+920,00
|
+3,43%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
1,44
|
-0,05
|
-3,10%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
120,74
|
+1,32
|
+1,11%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
116,30
|
+0,74
|
+0,64%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
344,50
|
-1,25
|
-0,36%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
40.700,00
|
+120,00
|
+0,30%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.774,50
|
+3,90
|
+0,22%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.068,00
|
-3,00
|
-0,05%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
18,05
|
0,00
|
-0,01%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,50
|
+0,80
|
+1,32%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
806,63
|
+1,13
|
+0,14%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.845,42
|
-0,80
|
-0,04%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
268,05
|
+0,25
|
+0,09%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.865,00
|
-40,00
|
-0,68%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.576,00
|
-19,00
|
-1,19%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.036,50
|
-3,50
|
-0,17%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
16.655,00
|
-241,00
|
-1,43%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
320,50
|
-6,50
|
-1,99%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
488,25
|
+2,50
|
+0,51%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
289,75
|
+0,75
|
+0,26%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,39
|
+0,12
|
+0,94%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
868,25
|
-1,75
|
-0,20%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
293,00
|
-0,20
|
-0,07%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,42
|
-0,08
|
-0,28%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
469,10
|
-2,40
|
-0,51%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.386,00
|
+80,00
|
+3,47%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
95,80
|
-2,00
|
-2,05%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,92
|
+0,08
|
+0,68%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
124,25
|
+1,45
|
+1,18%
|
Bông
|
US cent/lb
|
59,70
|
+0,49
|
+0,83%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
429,50
|
+5,40
|
+1,27%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
155,10
|
+0,20
|
+0,13%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,11
|
-0,06
|
-5,07%
|