Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng nhẹ do nhà đầu tư lạc quan về triển vọng thị trường sau khi các nhà sản xuất dầu chủ chốt nhất trí giá hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng thêm một tháng để duy trì xu hướng giá đi lên như hiện tại.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2020 tăng 75 US cent lên 38,94 USD/thùng; dầu Brent kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 38 US cent lên 41,18 USD/thùng.
Giá dầu tăng bất chấp tồn trữ dầu thô của Mỹ tăng do các hạn chế bởi đại dịch khiến nhu cầu suy giảm. Tồn trữ dầu thô tăng 8,4 triệu thùng trong tuần đến ngày 5/6/2020 lên 539,4 triệu thùng, số liệu của Viện Dầu mỏ Mỹ cho biết.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các nước đồng minh, dẫn đầu là Nga (OPEC+) cuối tuần trước đã nhất trí gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng 9,7 triệu thùng/ngày cho đến hết tháng 7/2020.
Saudi Arabia, thành viên chủ chốt của OPEC, ngày 8/6 thông báo sẽ không tiếp tục cắt giảm sản lượng tự nguyện ngoài thỏa thuận của OPEC+ sau tháng 6/2020. Tháng 5 vừa qua, Saudi Arabia, Kuwait và Các tiểu vương quốc Arab thống nhất đã nhất trí sẽ cắt giảm thêm 1,18 triệu thùng/ngày trong tháng 6/2020.
Goldman Sachs nâng dự báo giá dầu Brent năm 2020 lên 40,4 USD/thùng và dầu WTI lên 36 USD/thùng, song cảnh báo rằng giá dầu có khả năng giảm trở lại trong những tuần tới do nhu cầu không chắc chắn và tồn trữ tăng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng mạnh do USD yếu đi. Tuy nhiên, biên độ giá hẹp vì nhà đầu tư thận trọng trước cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Cuối phiên giao dịch, giá àng giao ngay tăng 1,2% lên 1.714,78 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 1% lên 1.721,9 USD/ounce.
Người phụ trách chiến lược của CMC Markets, Michael McCarthy, cho biết, vàng chịu sức ép trong suốt phiên do hoạt động mua vào các tài sản rủi ro, nhưng việc đồng USD yếu đã hỗ trợ giá kim loại này. Đồng USD đã ở gần mức thấp nhất trong 3 tháng, khiến vàng rẻ hơn đối với những người mua bằng các đồng tiền khác.
Tuy nhiên, đà tăng của giá vàng bị cản trở bởi các nhà giao dịch mua vào các tài sản rủi ro khi lòng tin vào đà phục hồi kinh tế đã đưa chỉ số Nasdaq Composite của chứng khoán Mỹ đạt mức cao kỷ lục. Các chỉ số chứng khoán châu Á cũng trên đà tăng điểm.
Các nhà đầu tư đang hướng sự chú ý đến cuộc họp của Fed trong hai ngày 9-10/6, chờ đợi những định hướng sắp tới từ ngân hàng này khi nền kinh tế Mỹ đang dần cho thấy những dấu hiệu phục hồi.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm và kẽm giảm sau khi tồn trữ tăng và nhu cầu suy yếu bởi đại dịch virus corona, có thể dẫn đến tình trạng dư thừa nguồn cung.
Giá nhôm trên sàn London giảm sau khi tăng trong đầu phiên giao dịch và ở mức ổn định 1.604,5 USD/tấn. Tuy nhiên, trong 3,5 tuần qua giá nhôm tăng gần 10% lên mức cao nhất kể từ ngày 20/3/2020 trong ngày 8/6/2020. Giá nhôm kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn Thượng Hải tăng 1,7% lên 13.555 CNY (1.915,31 USD)/tấn, cao nhất hơn 4,5 tháng.
Tồn trữ nhôm toàn cầu dự kiến sẽ tăng 5 triệu tấn vào cuối năm nay lên 16 triệu tấn. Tồn trữ nhôm tại London đạt mức cao nhất 3 năm (1,54 triệu tấn) và trong 3 tháng qua tăng 52%.
Giá kẽm giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,3% xuống 2.015,5 USD/tấn, do tồn trữ kẽm tại London tăng 10.000 tấn lên 89.400 tấn. Giá đồng tăng 1,2% lên 5.768,5 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 3/3/2020. Giá thiếc tăng 1,4% lên 16.895 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 11/3/2020.
Giá thép tại Trung Quốc giảm bởi nhu cầu từ thị trường nước ngoài chậm lại, trong khi đó mùa mưa đang đến gần làm gia tăng lo ngại về nhu cầu nguyên liệu xây dựng trên thị trường trong nước. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2020 giảm 0,3% xuống 3.619 CNY (510,93 USD)/tấn. Giá thép cuộn cán nóng không thay đổi ở mức 3.545 CNY/tấn. Giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 8/2020 giảm 0,3% xuống 12.945 CNY/tấn. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Đại Liên giảm 1% xuống 770 CNY/tấn, sau khi tăng 2 phiên liên tiếp.
Xuất khẩu sản phẩm thép của Trung Quốc trong tháng 5/2020 giảm 30% so với tháng 4/2020 xuống 4,4 triệu tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn ICE tăng 0,06 US cent tương đương 0,5% lên 12 US cent/lb, trong phiên trước đó đạt 12,27 US cent/lb, cao nhất kể từ ngày 11/3/2020. Đường trắng kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn London tăng 1 USD tương đương 0,3% lên 388,3 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn ICE giảm 1,1 US cent tương đương 1,1% xuống 97,8 US cent/lb. Giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 29 USD tương đương 23% xuống 1.221 USD/tấn.
Giá đậu tương Mỹ giảm nhẹ do triển vọng sản lượng cải thiện, mặc dù Trung Quốc mua thêm đậu tương Mỹ. Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2020 giảm 1-1/2 US cent xuống 8,63-1/4 USD/bushel. Đồng thời, giá ngô giao cùng kỳ hạn giảm 6-1/4 US cent xuống 3,27-1/2 USD/bushel và giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2020 giảm 7 US cent xuống 5,04-1/2 USD/bushel. Doanh nghiệp quốc doanh của Trung Quốc - Sinograin - đã mua ít nhất 120.000 tấn đậu tương Mỹ giao hàng tháng 12/2020.
Giá cao su tại Tokyo giảm do lo ngại nhu cầu giảm. Cao su kỳ hạn tháng 11/2020 trên sàn TOCOM giảm 1,1 JPY xuống 162,9 JPY (1,5 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Thượng Hải tăng 10 CNY lên 10.640 CNY (1.501 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 7/2020 trên sàn SICOM giảm 1% xuống 117,1 U cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới sáng 10/6/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

38,31

-0,63

-1,62%

Dầu Brent

USD/thùng

40,68

-0,50

-1,21%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.390,00

-160,00

-0,56%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,74

-0,03

-1,58%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

121,42

+0,39

+0,32%

Dầu đốt

US cent/gallon

114,35

-1,12

-0,97%

Dầu khí

USD/tấn

332,50

+3,50

+1,06%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

39.540,00

+250,00

+0,64%

Vàng New York

USD/ounce

1.722,90

+1,00

+0,06%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.949,00

+44,00

+0,75%

Bạc New York

USD/ounce

17,85

+0,05

+0,29%

Bạc TOCOM

JPY/g

63,40

+1,90

+3,09%

Bạch kim

USD/ounce

841,08

+4,58

+0,55%

Palađi

USD/ounce

1.965,83

+12,03

+0,62%

Đồng New York

US cent/lb

260,50

+0,60

+0,23%

Đồng LME

USD/tấn

5.774,00

+74,50

+1,31%

Nhôm LME

USD/tấn

1.605,50

+0,50

+0,03%

Kẽm LME

USD/tấn

2.017,50

-24,50

-1,20%

Thiếc LME

USD/tấn

16.922,00

+257,00

+1,54%

Ngô

US cent/bushel

326,50

-1,00

-0,31%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

503,25

-1,25

-0,25%

Lúa mạch

US cent/bushel

317,00

-0,25

-0,08%

Gạo thô

USD/cwt

12,16

+0,14

+1,21%

Đậu tương

US cent/bushel

863,75

+0,50

+0,06%

Khô đậu tương

USD/tấn

286,90

-0,20

-0,07%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,25

+0,02

+0,07%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

467,10

-0,60

-0,13%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.419,00

+46,00

+1,94%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

99,70

-1,00

-0,99%

Đường thô

US cent/lb

12,16

+0,13

+1,08%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

125,90

+0,55

+0,44%

Bông

US cent/lb

59,99

-0,03

-0,05%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

357,60

-13,20

-3,56%

Cao su TOCOM

JPY/kg

163,20

+0,30

+0,18%

Ethanol CME

USD/gallon

1,20

-0,03

-2,12%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg