Năng lượng: Giá dầu giảm 2/3 trong quý 1
Giá dầu mỏ thế giới phiên 31/3 diễn biến trái chiều, khi các nhà giao dịch tiếp tục đánh giá tác động của dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19. Trong phiên 31/3, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng Năm tăng 0,39 USD, chốt ở mức 20,48 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent giao cùng kỳ giảm 0,02 USD, xuống 22,74 USD/thùng.
Tính chung trong tháng 3/2020, giá dầu WTI giảm 54%, trong khi dầu Brent giảm 55%; tính chung trong cả quý 1/2020, cả 2 loại giảm khoảng 66%.
Thị trường dầu thô đang trải qua những chuỗi ngày biến động rất mạnh do kinh tế toàn cầu bị tổn thương bởi dịch Covid-19 và cuộc chiến giá cả giữa Nga và Saudi Arabia.
Thị trường dầu đã trở nên hỗn loạn từ đầu tháng 3, sau khi OPEC và các nước đồng minh dầu mỏ thất bại trong nỗ lực tiếp tục kiềm chế sản xuất và xuất khẩu để hỗ trợ giá dầu. Saudi Arabia ngay sau cuộc họp tuyên bố tăng mạnh sản lượng cũng như xuất khẩu để trả đũa việc Nga dẫn đầu trong nhóm không ủng hộ nói trên. Tới thời điểm hiện tại, các nhà giao dịch lo ngại về những bất đồng giữa các nhà sản xuất dầu mỏ chủ chốt. Theo một thông báo của Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống Nga Vladimir Putin ngày 30/3 đã điện đàm và nhất trí cần ổn định các thị trường năng lượng toàn cầu.
Trong khi đó, nhu cầu dầu trên toàn cầu sụt giảm nhanh chóng do Covid-19 khiến các nước phải hạn chế việc đi lại.
Dự báo nhu cầu dầu mỏ thế giới sẽ còn tiếp tục giảm thêm nữa trong những tháng tới. Trafigura dự báo nhu cầu sẽ giảm 30% giữa bối cảnh ngành giao thông vận tái nói chung và hàng không nói riêng gần như đình trệ. Cơ quan Năng lượng Quốc tế cảnh báo, nhu cầu dầu mỏ có thể giảm đến 20 triệu thùng/ngày, hay 20%, trong năm nay, do 3 tỷ người trên thế giới bị phong tỏa.
Kim loại quý: Giá vàng tăng quý thứ 6 liên tiếp
Phiên giao dịch cuối cùng của tháng 3/2020, giá vàng giảm hơn 2%, xuống mức thấp nhất trong vòng một tuần do đồng USD mạnh lên (tăng 0,32 điểm, hay 0,32%, lên 99,5 điểm).
Tuy nhiên, tính chung cả quý, giá vẫn tăng quý thứ 6 liên tiếp bởi lo ngại kinh tế toàn cầu suy yếu khiến nhà đầu tư tìm tới tài sản an toàn.
Đóng cửa phiên 31/3, vàng giao ngay giảm 2,1% xuống 1.587,7 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tháng 4/2020 giảm 2,8% xuống 1.596,6 USD/ounce. Tâm lý thận trọng của các nhà đầu tư đã đẩy USD tăng trong phiên vừa qua so với các đồng tiền chủ chốt khác. Bên cạnh đó, chỉ số chứng khoán giảm điểm cũng hỗ trợ giá vàng. Chỉ số Dow Jones phiên vừa qua giảm 137,76 điểm, hay 0,62%, xuống 22.189,72 điểm.
Tính chung cả quý 1/2020, giá vàng tăng 4,6%. Lý do chủ yếu bởi căng thẳng Mỹ - Iran hồi tháng 1 và sau đó là đại dịch Covid-19 kéo dài cho tới hiện tại.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim giảm 0,4% trong phiên vừa qua, xuống 720,25 USD/ounce, tính chung cả quý giảm mạnh nhất kể từ tháng 9/2008 do nhu cầu từ ngành ô tô suy yếu. Giá palađi tăng 1,1% trong phiên 31/3 lên 2.353,18 USD/ounce, tính chung cả quý tăng mạnh nhất kể từ 2010; tuy nhiên nếu tính riêng trong tháng 3 thì palađi giảm tháng đầu tiên trong vòng 8 tháng. Giá bạc giảm 1,1% trong phiên vừa qua, xuống 13,96 USD/ounce; trong quý I/2020 giảm quý đầu tiên kể từ tháng 6/2013; riêng trong tháng 3 giảm nhiều nhất kể từ tháng 9/2011.
Kim loại công nghiệp: Giá giảm trong quý 1
Giá đồng và các kim loại cơ bản khác hầu hết tăng trong phiên giao dịch cuối cùng của tháng 3 do số liệu hoạt động sản xuất của các nhà máy Trung Quốc tốt hơn dự kiến. Tuy nhiên, tính chung cả quý 1, giá giảm mạnh nhất kể từ 2011 (giảm khoảng 20%) do dịch virus corona lây lan khắp nơi khiến các nhà máy trên toàn cầu phải đóng cửa hoặc sản xuất cầm chừng, làm giảm nhu cầu kim loại. Các kim loại công nghiệp khác cũng giảm khoảng 10 – 20% trong cùng quý.
Kết thúc phiên vừa qua, đồng kỳ hạn 3 tháng trên sàn London tăng 3,5% lên 4.935,5 USD/tấn, cao nhất kể từ 18/3. Tính chung cả quý I, giá giảm khoảng 20%.
Các kim loại công nghiệp khác cũng giảm khoảng 10 – 20% trong cùng quý. Nhôm kết thúc phiên cuối tháng tăng 0,2% lên 1.533 USD/tấn, kẽm tăng 2,2% lên 1.914 USD/tấn, nickel tăng 1% lên 11.480 USD/tấn, chì tăng 2,5% lên 1.746,50 USD/tấn và thiếc tăng 1% lên 14.650. Tuy nhiên, tính chung cả tháng 3, tất cả đều giảm sút.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc tăng trong phiên vừa qua bởi triển vọng nhu cầu tăng sau khi Trung Quốc mở rộng các chương trình kích thích kinh tế khiến hoạt động của các nhà máy ở nước này đang hồi phục nhanh chóng. Trên sàn Đại Liên, quặng sắt kỳ hạn tháng 5 đầu phiên có thời điểm giá tăng 1,5%, trước khi kết thúc phiên ở mức tăng 0,9% lên 650,5 CNY (91,77 USD)/tấn. Tồn trữ quặng tại các cảng biển nước này giảm tuần thứ 2 liên tiếp, xuống 121,25 triệu tấn vào ngày 27/3, thấp nhất trong vòng 8 tháng.
Đối với mặt hàng thép, giá trong xu hướng giảm suốt quý I/2020. Cụ thể, thép cây trên sàn Thượng Hải giảm 4% trong quý vừa qua, thép cuộng cán nóng giảm 8,9%. Phiên cuối cùng của tháng 3, giá thép cây giảm 0,1% xuống 3.252 CNY/tấn, trong khi thép cuộn cán nóng giảm 0,1% xuống 3.252 CNY/tấn.
Nông sản: Giá đường giảm và cao su giảm, cà phê tăng
Trên sàn Chicago, giá ngô đã giảm 7,5% trong tháng 3, mức giảm nhiều nhất kể từ tháng 8 năm ngoái, trong khi giá đậu tương giảm 0,8% và lúa mì giảm 8,3% - nhiều nhất kể từ tháng 5/2019.
Phiên cuối cùng của tháng 3, giá đường thô kỳ hạn tháng 5 giảm 31 US cent, tương đương 2,9%, xuống 10,42 US cent/lb. Đường trắng giao cùng kỳ hạn cũng giảm 3 USD (0,8%) xuống 353,1 USD/tấn. Tính chung cả quý 1, giá đường thô trên sàn liên lục địa ICE đã giảm 20% do lo ngại giá năng lượng giảm sẽ thúc đẩy các nhà chế biến mía Brazil gia tăng sản xuất đường thay vì ethanol, khiến thị trường đường sẽ trở nên dư thừa.
Giá cà phê arabica tăng 0,25 US cent (0,2%) trong phiên vừa qua, lên 1,1955 USD/lb; tính chung cả quý I giá tăng 7%, là một trong số ít những mặt hàng tăng giá ở quý này. Cà phê robusta phiên 31/3 giảm 17 USD, tương đương 1,4%, xuống 1,186 USD/tấn.
Giá dầu cọ giảm trong phiên cuối tháng do lo ngại nhu cầu sụt giảm vì dịch bệnh, mặc dù nguồn cung ở nước sản xuất dầu cọ lớn thứ 2 thế giới cũng bị gián đoạn do chính sách cách ly để chống dịch.
Kết thúc phiên này, dầu cọ kỳ hạn tháng 6/2020 trên sàn Bursa (Malaysia) giảm 39 ringgit (1,6%) xuống 2.402 ringgit (556,66 USD)/tấn. 
Giá cao su trên sàn Tokyo (TOCOM) phiên 31/3 hồi phục khỏi mức thấp nhất 11 năm của phiên trước, mặc dù vẫn còn đó nỗi lo về dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành sản xuất ô tô. Dầu thô giảm giá cũng tác động mạnh lên thị trường cao su. Cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn TOCOM tăng 1 JPY (0,7%) lên 145,2 JPY (1,34 USD)/kg. Tuy nhiên, tính chung cả quý I, giá giảm 27%, riêng trong tháng 3 mất 16%.
Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 9 cũng tăng 220 CNY trong phiên cuối tháng, lên 9.680 CNY (1.364 USD)/tấn.
Giá bông tăng trong phiên cuối cùng của tháng 3, nhưng tính chung trong quý 1 giảm nhiều nhất kể từ 2011. Bông kỳ hạn tháng 5 trên sàn New York tăng 0,43 US cent trong phiên này, tương đương 0,85%, kế thúc ở 51,13 US cent/lb, trong phiên giao dịch ở khoảng 49,46 – 51,73 US cent/lb. Tính chung cả quý 1, giá giảm nhiều nhất kể từ 2011, trong đó riêng tháng 3 giảm khoảng 17%.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá 2/1

Giá 31/3

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

61,15

20,15

-0,33

-1,61%

Dầu Brent

USD/thùng

66,25

26,35

-0,07

-0,26%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

42.520,00

23.440,00

-1.340,00

-5,41%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,13

1,65

+0,01

+0,30%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

170,44

57,32

-1,23

-2,10%

Dầu đốt

US cent/gallon

202,49

101,21

-0,73

-0,72%

Dầu khí

USD/tấn

615,50

292,75

+7,50

+2,63%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

58.990,00

33.680,00

-1.040,00

-3,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.530,70

1.590,30

-6,30

-0,39%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.296,00

5.423,00

-167,00

-2,99%

Bạc New York

USD/ounce

18,07

14,11

-0,05

-0,36%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,80

48,40

-1,10

-2,22%

Bạch kim

USD/ounce

980,01

720,62

-2,47

-0,34%

Palađi

USD/ounce

1.960,57

2.299,30

-63,81

-2,70%

Đồng New York

US cent/lb

282,15

221,05

-1,75

-0,79%

Đồng LME

USD/tấn

6.174,00

4.951,00

+181,50

+3,81%

Nhôm LME

USD/tấn

1.810,00

1.526,00

-4,50

-0,29%

Kẽm LME

USD/tấn

2.272,00

1.905,50

+33,50

+1,79%

Thiếc LME

USD/tấn

17.175,00

14.602,00

+102,00

+0,70%

Ngô

US cent/bushel

391,50

340,75

-0,50

-0,15%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

560,25

568,75

-0,75

-0,13%

Lúa mạch

US cent/bushel

298,00

264,25

+2,75

+1,05%

Gạo thô

USD/cwt

13,16

14,04

-0,06

-0,43%

Đậu tương

US cent/bushel

956,25

886,00

+3,75

+0,43%

Khô đậu tương

USD/tấn

305,60

321,50

-4,00

-1,23%

Dầu đậu tương

US cent/lb

35,24

27,01

+0,14

+0,52%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

480,00

468,80

+1,30

+0,28%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.532,00

2.249,00

-16,00

-0,71%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

127,10

119,55

+0,25

+0,21%

Đường thô

US cent/lb

13,13

10,42

-0,31

-2,89%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

100,75

120,20

+0,80

+0,67%

Bông

US cent/lb

69,27

51,13

+0,43

+0,85%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

431,80

278,50

-18,00

-6,07%

Cao su TOCOM

JPY/kg

200,00

145,20

0,00

0,00%

Ethanol CME

USD/gallon

1,37

0,92

-0,04

-4,46%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg