Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô sụt giảm trở lại sau khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) nâng dự báo sản lượng dầu của nước này lên trong cả năm nay và năm tới.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 6/2017 đã giảm 0,55 USD xuống còn 45,88 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 7/2017 cũng giảm 0,61 USD xuống 48,73 USD/thùng tại London.
Thị trường dầu mỏ toàn cầu đang chịu sức ép giảm do sản lượng dầu mỏ của Mỹ tiếp tục gia tăng, đặc biệt là sản lượng dầu đá phiến, trong khi các tín hiệu mới đây cho thấy xu hướng giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc đang ngăn cản nỗ lực phục hồi giá dầu của OPEC. Kể từ giữa năm 2016 tới nay, sản lượng dầu mỏ của Mỹ đã tăng trên 10%,lên 9,3 triệu thùng/ngày, gần đuổi kịp sản lượng của các nhà sản xuất dầu mỏ hàng đầu thế giới như Nga và Saudi Arabia. Ngoài ra, theo ngân hàng Bank of America, giá dầu thấp còn do nhu cầu tiêu thụ toàn cầu đang trên đà suy yếu.
EIA cho hay sản lượng dầu thô bình quân của Mỹ dự kiến sẽ đạt 9,3 triệu thùng/ngày trong năm nay và gần 10 triệu thùng/ngày vào năm 2018. EIA cũng điều chỉnh dự báo giá dầu bình quân xuống 53 USD/thùng đối với dầu Brent và 51 USD đối với dầu ngọt nhẹ Mỹ năm nay.
Thị trường dầu mỏ toàn cầu đang chịu sức ép giảm do sản lượng dầu mỏ của Mỹ tiếp tục gia tăng, nhất là sản lượng dầu khí đá phiến, trong khi các tín hiệu mới đây cho thấy xu hướng giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc đang cản trở nỗ lực của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) trong việc phục hồi giá dầu.
3 tuần qua, giá dầu đã giảm khoảng 13%, trong bối cảnh lo ngại rằng thỏa thuận cắt giảm sản lượng của OPEC và các quốc gia đồng minh không đủ để ngăn cản tình trạng dư thừa sản lượng toàn cầu. Nhà xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất OPEC là Saudi Arabia ngày 8/5 cho biết nước này sẽ nỗ lực hết sức để tái cân bằng thị trường dầu mỏ, vốn bị trượt dốc mạnh trong suốt hơn hai năm qua do tình trạng dôi dư nguồn cung, khiến giá dầu rớt xuống dưới 50 USD/thùng. Các nước trong và ngoài OPEC dự kiến sẽ quyết định về việc có kéo dài thỏa thuận cắt giảm sản lượng khai thác dầu mỏ hay không trong cuộc gặp vào ngày 25/5 tại Vienna (Áo).
James Cordier - sáng lập viên công ty đầu tư Optionsellers.com ở Tampa, Florida cho biết đây là dấu hiệu của "tâm lý tiêu cực tăng dần" đang bao phủ thị trường dầu mỏ. Ông nhận định: "Làn sóng đầu cơ cực lớn cho thấy rằng nỗi sợ hãi đang ở đỉnh cao và có lẽ chúng ta sẽ được nhìn thấy giá dầu hồi phục. Đó là chiếc vé số chết tiệt mà thị trường mãi vẫn chưa trúng".
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do nhu cầu đối với tài sản an toàn yếu đi.
Giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.215,81 USD/ounce, sau khi có thời điểm rơi xuống dưới mức dao động trung bình của 100 ngày là 1.214,39 USD/ounce - mức thấp nhất kể từ ngày 15/3; giá vàng giao kỳ hạn cũng giẩm 0,9% xuống 1.216,10 USD/ounce.
Những đồn đoán ngày càng dồn dập về khả năng Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ nâng lãi suất tại cuộc họp chính sách tháng Sáu tới, nhất là sau khi thị trường tiếp nhận báo cáo tích cực về việc làm của Mỹ trong tháng 4/2017, tiếp tục khiến thị trường vàng thêm ảm đạm.
Sau nhiều phiên sụt giảm liên tiếp, giá vàng khiến nhà đầu tư và giới chuyên gia thất vọng, đặc biệt trong bối cảnh chỉ số đồng USD đang có chiều hướng đi lên theo kỳ vọng gia tăng về động thái tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong tháng tới.
Mới đây, có thêm dự báo cho rằng giá vàng thế giới có thể rơi xuống mức rất thấp. Doug Groh, nhà quản lý danh mục tại Tocqueville dự đoán giá vàng sẽ sớm tìm ngưỡng hỗ trợ ở mức 1.200 USD/ounce trong tương lai gần. Tính theo giá quy đổi, mức giá này tương đương 33 triệu đồng/lượng ở thị trường Việt Nam.
Không đưa ra mức giá cụ thể nhưng chuyên gia vàng kỳ cựu Adrian Day nhận định, giá vàng sẽ yếu đi sau khi Ủy ban thị trường mở (FOMC) của FED công bố kết quả cuộc họp dự kiến sẽ diễn ra vào tháng sau. Chuyên gia Adrian Day cho biết, FED nói rằng nền kinh tế đang mạnh hơn, và điều này chắc chắn sẽ gây áp lực lên vàng.
Tuy nhiên, Joni Teves, chuyên gia phân tích thuộc UBS cho biết mặc dù vàng có thể sẽ tiếp tục chịu sức ép giảm giá trong thời gian tới khi nguy cơ bất ổn chính trị đã bớt đi, song không loại trừ khả năng xu hướng săn tìm hàng hóa giá hời và như cầu mua vàng vật chất cao có thể giúp giá kim loại quý phục hồi.
Ông Doug Groh cũng để ngỏ dự báo lạc quan về thị trường kim loại quý. Ông cho rằng, vàng là thước đo của bất ổn tài chính và các rủi ro tiềm ẩn. Vàng đang giảm nhưng giá trị của vàng lại nằm ở nơi khác. Doug Groh phân tích: Khi lạm phát quay trở lại và đồng USD mất giá trị, nhà đầu tư sẽ quay trở lại vàng. Vàng sẽ tìm thấy vị thế nơi trú ẩn an toàn của mình.
Về các kim loại quý khác, giá bạc và bạch kim cũng hạ 1% và 1,9% xuống lần lượt 16,07 USD/ounce và 898,98 USD/ounce, trong khi palladium sụt giảm 1,6% xuống 794,40 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường đảo chiều tăng sau nhiều phiên giảm trước đó. Đường thô giao tháng 7 giá tăng 0,06 US cent hay 0,4% lên 15,44 US cent/lb, trong khi đường trắng giao tháng 8 giá tăng 2,7 USD hay 0,6% lên 445,50 USD/tấn.
Nhà môi giới INTL FCStone đã hạ dự báo về thiếu hụt đường thế giới niên vụ 2017-18 xuống 300.000 tấn, từ mức 500.000 tấn dự báo trước đây.
Tuy nhiên, thị trường đường vẫn đang chịu áp lực từ việc Ấn Độ có thể sẽ không nhập khẩu đường vào mùa hè tới và Trung Quốc đang xem xét đánh thuế chống phá giá đối với đường nhập khẩu cũng tác động tới giá đường.
Nhập khẩu đường của Trung Quốc được dự báo giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm vào niên vụ tới do sản xuất nội địa tăng và chính phủ nước này tăng cường kiểm soát hoạt động buôn lậu cũng như các hoạt động nhập khẩu khác.
Theo nhận định của văn phòng USDA tại Bắc Kinh, sản lượng đường của Trung Quốc được dự báo tăng 1 triệu tấn trong niên vụ 2017-18, lên 10,5 triệu tấn nhờ các chính sách hỗ trợ sản xuất của chính phủ và giá đường tăng. Sản lượng đường nội địa tăng và giá đường dự báo hạ nhiệt trong năm tới được cho là những nguyên nhân thúc đẩy tiêu dùng và giảm nhập khẩu. Tuy nhiên, các chính sách của chính phủ Trung Quốc sẽ tác động lớn đến tình hình thị trường và có khả năng nhập khẩu giảm nhanh hơn nếu chính phủ nước này tăng mạnh các biện pháp kiểm soát buôn lậu và nhập khẩu. Năm 2016, chính phủ Trung Quốc đã công bố kế hoạch 5 năm mới nhất, trong đó có kế hoạch thúc đẩy sản xuất đường nội địa lên 15 triệu tấn đến năm 2020. Xét đến tiêu dùng được dự báo tăng lên mức 18 triệu tấn trong cùng kỳ, dự báo nhập khẩu đường của Trung Quốc sẽ ngày càng giảm. Nhập khẩu đường của nước này được dự báo sẽ giảm 1 triệu tấn xuống 4,2 triệu tấn trong niên vụ tới – mức nhập khẩu thấp nhất trong 5 năm qua.
Với cà phê, giá quay đầu giảm. Arabica trên sàn New York giảm 1,75 US cent hay 1,3% xuống 1,3515 USD/lb, trong khi robusta trên sàn London giảm 7 USD hay 0,4% xuống 2.020 USD/tấn.
Tổ chức Cà phê Quốc tế cho biết thị trường ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy nguồn cung năm 2017-2018 sẽ khả quan.

 

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

45,88

-0,55

-0,68%

Dầu Brent

USD/thùng

48,73

-0,6

-0,57%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

34.900,00

+30,00

+0,09%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,21

-0,02

-0,53%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

148,59

-0,36

-0,24%

Dầu đốt

US cent/gallon

144,62

+0,41

+0,28%

Dầu khí

USD/tấn

435,50

+1,00

+0,23%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

47.670,00

+80,00

+0,17%

Vàng New York

USD/ounce

1.221,90

-5,80

-0,48%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.460,00

+2,00

+0,04%

Bạc New York

USD/ounce

16,18

+0,11

+0,70%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,40

-0,10

-0,17%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz,

906,30

+0,66

+0,07%

Palladium giao ngay

USD/t oz,

798,32

-0,16

-0,02%

Đồng New York

US cent/lb

250,25

+0,45

+0,18%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

5.512,00

+26,00

+0,47%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.870,00

-9,00

-0,48%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.612,00

+23,00

+0,89%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.675,00

-25,00

-0,13%

Ngô

US cent/bushel

367,00

+0,50

+0,14%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

428,75

-0,75

-0,17%

Lúa mạch

US cent/bushel

243,00

-2,75

-1,12%

Gạo thô

USD/cwt

9,90

+0,03

+0,30%

Đậu tương

US cent/bushel

974,75

+0,75

+0,08%

Khô đậu tương

USD/tấn

318,70

+0,20

+0,06%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,91

+0,02

+0,06%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

527,90

+0,30

+0,06%

Cacao Mỹ

USD/tấn

1.960,00

+5,00

+0,26%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

135,15

-1,75

-1,28%

Đường thô

US cent/lb

15,44

+0,06

+0,39%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

148,40

-0,25

-0,17%

Bông

US cent/lb

77,47

+0,04

+0,05%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

384,40

-3,10

-0,80%

Cao su TOCOM

JPY/kg

210,60

+1,90

+0,91%

Ethanol CME

USD/gallon

1,45

-0,03

-2,09%

Nguồn: VITIC/Reuters. Bloomberg