Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng bởi Nga dự định cắt giảm sản lượng dầu trong tháng 1/2019 và công ty dầu mỏ quốc gia Lybia (NOC) thông báo đóng cửa mỏ dầu El Sharara lớn nhất nước này do tình trạng bất khả kháng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 1/2019 tăng 0,65 USD lên mức 51,65 USDthùng; dầu Brent giao tháng 1/2018 tăng 0,23 USD lên 60,2 USD/thùng.
Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak ngày 11/12/2018 thông báo Moskva sẽ cắt giảm sản lượng dầu ít nhất là 50.000- 60.000 thùng/ngày trong tháng 1/2019, đồng nghĩa với việc sản lượng của nước này sẽ vào khoảng 11,35 triệu thùng/ngày trong tháng 1/2019, thấp hơn mức 11,37 triệu thùng/ngày trong tháng 11/2018.
Trước đó, NOC tuyên bố tình trạng ngừng hoạt động do tình trạng bất khả kháng tại mỏ dầu lớn nhất nước này là El Sharara kể từ ngày 9/12 - hiện do một nhóm vũ trang kiểm soát. Động thái sẽ dẫn tới việc sản lượng dầu của Libya sụt giảm 315.000 thùng/ngày cùng với 73.000 thùng/ngày bị “mất” tại mỏ dầu El Feel do sự phụ thuộc vào nguồn cung điện từ El Sharara.
Trong bối cảnh Libya được miễn trừ thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu 1,2 triệu thùng/ngày mà Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước liên minh đạt được hồi tuần qua, các nhà phân tích cho rằng sự sụt giảm sản lượng nói trên sẽ hỗ trợ niềm tin của giới đầu tư và giảm bớt những quan ngại hiện nay về tình trạng dư thừa nguồn cung “vàng đen”.
Chứng khoán Mỹ giảm trở lại sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đe dọa đóng cửa chính phủ liên bang về việc tài trợ cho một bức tường dọc biên giới giữa Mỹ - Mexico.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất 5 tháng giữa bối cảnh đồn đoán về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiến hành ít lần tăng lãi suất hơn trong năm tới.
Kết thúc phiên, giá vàng giao tháng 2/2019 giảm 0,18% xuống 1.247,2 USD/ounce; vàng giao ngay đứng ở mức 1.243,34 USD/ounce, gần sát kỷ lục cao nhất 5 tháng 1.250,55 USD ounce của phiên trước đó.
Về những kim lọa quý khác, giá palađi tăng 2% lên 1.241,4 USD/ounce, bạc giao ngay giảm 0,3% xuống 14,49 USD/ounce, trong khi bạch kim hạ 0,7% xuống 779,74 USD/ounce.
Bất ổn về Brexit khiến đồng bảng Anh giảm giá và củng cố sức mạnh của đồng USD. Chỉ số đồng USD – thước đo “sức khỏe” của đồng bạc xanh so với rổ các đồng tiền chủ chốt khác – đã tăng 0,22% lên 97,41.
Bart Melek – phụ trách mảng chiến lược hàng hóa thuộc TD Securities – cho biết, Fed đang bắt đầu đánh đi tín hiệu cho thấy họ có thể rất gần trạng thái trung lập, nghĩa là tiến hành tăng lãi suất không nhiều lần nữa.
Trong những tuần qua, một số phát ngôn từ các quan chức Fed, gồm cả Chủ tịch Jerome Powell, đã đánh đi tín hiệu để thị trường biết rằng họ sẽ căn cứ vào dữ liệu kinh tế khi đưa ra quyết định tiếp theo về chính sách tiền tệ. Thị trường dự đoán nhiều khả năng lãi suất thấp hơn trong năm 2019 và 2020. Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí cơ hội nắm giữ vàng và gây sức ép lên đồng USD. Các nhà đầu tư vàng đang dõi theo cuộc họp của Fed dự kiến diễn ra vào ngày 18-19/12.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng và các kim loại cơ bản khác tăng trong phiên qua do nhu cầu trở lại của nhà đầu tư đối với các tài sản rủi ro sau khi đã bị bán tháo trong phiên trước. Đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại London tăng 1,3% lên 6.168 USD/tấn khi kết thúc phiên. Cuộc thảo luận giữa đại diện của Trung Quốc và Mỹ về lộ trình cho giai đoạn tiếp theo trong các cuộc đàm phán thương mại hứa hẹn căng thẳng giữa 2 bên sẽ dịu lại.
Cả 5 kim loại cơ bản tại London đều theo xu hướng giảm giá trong năm 2018, trong đó đồng và kẽm đã giảm hơn 20% từ đầu năm tới nay do lo ngại xung đột thương mại Mỹ - Trung sẽ gây tổn hại cho nhu cầu. Dự trữ đồng tại kho LME giảm 1.200 tấn xuống 121.300 tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 7/2008.
Lo ngại kéo dài về nhu cầu yếu từ Trung Quốc sau khi nhập khẩu đồng giảm 3% trong tháng 11/2018 so với một năm trước nhưng tăng 8,6% so với tháng trước đó.
Các ngân hàng Trung Quốc đã gia hạn nhiều khoản vay mới hơn dự kiến trong tháng 11/2018 sau khi giảm mạnh vào tháng trước, một dấu hiệu cho thấy áp lực gần đây của chính phủ lên ngân hàng nhằm giúp các công ty nhỏ gặp khó khăn có thể bắt đầu mang lại kết quả.
Tập đoàn khai thác Anglo American dự kiến sản lượng của họ sẽ tăng hơn dự kiến trước đó trong năm 2018 và 2021 trong khi chi phí năm nay thấp hơn.
Giá thép tại Trung Quốc giảm phiên thứ ba liên tiếp do lo ngại nhu cầu chậm lại sẽ tiếp diễn trong năm tới, đồng thời than cốc, nguyên liệu sản xuất thép cũng giảm. Thép cây sử dụng trong xây dựng trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đóng cửa giảm 0,5% xuống 3.327 CNY (484 USD)/tấn. Thép cuộn cán nóng sử dụng trong sản xuất giảm 0,1% xuống 3.309 CNY/tấn.
Giá thép giảm ngay cả khi thành phố sản xuất thép hàng đầu Đường Sơn yêu cầu các nhà máy thép và các nhà máy công nghiệp khác thực hiện cắt giảm sản lượng hơn nữa trong tháng này như một phần của các biện pháp khẩn cấp chống ô nhiễm.
Nhà sản xuất thép hàng đầu Baoshan Iron & Steel cho biết họ sẽ giảm giá các sản phẩm chủ chốt giao trong tháng 1/2019. Công ty Thép và Quặng sắt Wuhan cũng giảm giá trong tháng 1/2019.
Do số liệu doanh số bán ô tô yếu hơn và đầu tư cơ sở hạ tầng tăng trưởng nhạt nhòa, nhà phân tích Helen Lau tại công ty chứng khoán Argonaut Securities cho rằng nhu cầu thép Trung Quốc giảm trong năm 2019. Nếu xuất khẩu thép của Trung Quốc vẫn yếu, điều đó sẽ làm tăng nguy cơ dư cung tại thị trường trong nước. Xuất khẩu thép của Trung Quốc đã giảm gần 9% xuống 63,78 triệu tấn trong 11 tháng đầu năm nay.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giảm 2,8 US cent tương đương 2,7% xuống 1,0235 USD/lb, trong phiên có lúc xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9 năm nay là 1,0205 USD. Robusta cũng giảm 21 USD tương đương 1,4% xuống 1.527 USD/tấn, trong phiên có lúc thấp nhất kể từ 28/9/2018 là 1.526 USD/tấn.
Giá cà phê đang chịu áp lực giảm bởi dự báo nguồn cung dồi dào từ Việt Nam – đang giữa vụ thu hoạch, trong khi nhu cầu từ các nhà rang xay ở mức thấp.
Đường thô kỳ hạn tháng 3/2019 chốt phiên tăng 0,11 US cent hay 0,9% lên 12,83 US cent/lb.
Eheo tổ chức Unica khu vực trung nam Brazil đã tiêu thụ 14,578 triệu tấn mía trong nửa cuối tháng 11/2018, sản xuất 528.000 tấn đường. Các nhà máy phân bổ 35,71% mía để sản xuất đường.
Trong khi đó, Bộ Nông nghiệp Mỹ đã nâng triển vọng dự trữ đường trong niên vụ hiện nay do nhập khẩu tăng khi sản lượng giảm.
Đường trắng kỳ hạn tháng 3/2019 tăng 1,7 USD hay 0,5% lên 344,7 USD/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giảm xuống mức thấp nhất 1,5 tuần trong phiên vừa qua, bởi giá dầu yếu và lo ngại doanh số bán ô tô chậm lại tại Trung Quốc, nước mua cao su hàng đầu thế giới.
Hợp đồng cao su TOCOM kỳ hạn tháng 5/2019 đóng cửa giảm 0,1 JPY xuống 161,4 JPY (1,43 USD)/kg. Đầu phiên giao dịch, hợp đồng cao su này đã chạm mức thấp nhất kể từ ngày 30/11 ở mức 158,2 JPY/kg.
Tác động theo chiều giảm, doanh số bán ô tô của Trung Quốc trong tháng 11/2018 giảm khoảng 14% so với tháng 11/2017, đánh dấu mức giảm mạnh nhất trong gần 7 năm tại thị trường ô tô lớn nhất thế giới. Giá cao su TSR 20 giao tháng 6/2018 không đổi so với phiên trước ở mức 143,4 JPY/kg.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 5/2019 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 135 CNY đóng cửa tại 11.140 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

51,65

+0,65

+1,32%

Dầu Brent

USD/thùng

60,02

+0,23

+0,79%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

41.700,00

+950,00

+2,33%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

4,39

-0,01

-0,34%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

145,53

+1,55

+1,08%

Dầu đốt

US cent/gallon

186,14

+1,43

+0,77%

Dầu khí

USD/tấn

559,50

+0,25

+0,04%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.650,00

+970,00

+1,71%

Vàng New York

USD/ounce

1.250,70

+3,50

+0,28%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.534,00

+8,00

+0,18%

Bạc New York

USD/ounce

14,71

+0,08

+0,56%

Bạc TOCOM

JPY/g

53,30

+0,40

+0,76%

Bạch kim

USD/ounce

788,82

+3,26

+0,41%

Palađi

USD/ounce

1.247,88

+1,01

+0,08%

Đồng New York

US cent/lb

277,65

+0,95

+0,34%

Đồng LME

USD/tấn

6.168,00

+79,00

+1,30%

Nhôm LME

USD/tấn

1.939,00

+1,00

+0,05%

Kẽm LME

USD/tấn

2.590,00

+15,00

+0,58%

Thiếc LME

USD/tấn

19.125,00

+175,00

+0,92%

Ngô

US cent/bushel

385,25

+0,50

+0,13%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

524,00

+3,00

+0,58%

Lúa mạch

US cent/bushel

290,75

-1,25

-0,43%

Gạo thô

USD/cwt

10,65

-0,02

-0,19%

Đậu tương

US cent/bushel

918,75

+3,75

+0,41%

Khô đậu tương

USD/tấn

312,10

+1,20

+0,39%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,12

+0,16

+0,55%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

485,50

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.116,00

-90,00

-4,08%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

102,35

-2,80

-2,66%

Đường thô

US cent/lb

12,83

+0,11

+0,86%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

137,80

-1,60

-1,15%

Bông

US cent/lb

80,02

+0,14

+0,18%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

316,40

-0,70

-0,22%

Cao su TOCOM

JPY/kg

162,80

+1,40

+0,87%

Ethanol CME

USD/gallon

1,23

+0,01

+1,06%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters