Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng lên mức cao nhất trong hơn ba tuần, sau khi Saudi Arabia và Nga cho rằng việc cắt giảm sản lượng cần được duy trì sang năm 2018.
Giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 6/2017 tăng 1,01 USD (2,1%) lên 48,85 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 7/2017 tăng 0,98 USD (1,9%) lên 51,82 USD/thùng, trong phiên có lúc giá vọt lên 52,63 USD/thùng - mức cao nhất kể từ ngày 21/4/2017.
Các Bộ trưởng Năng lượng của Saudi Arabia và Nga, hai nước sản xuất dầu hàng đầu thế giới, đã nhất trí rằng thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu hiện nay của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) cần được kéo dài thêm chín tháng nữa (cho đến tháng 3/2018).
Thông báo trên được đưa ra trước cuộc họp chính thức của OPEC dự kiến diễn ra vào ngày 25/5 tới tại Vienna, Áo và “từ ngữ mạnh mẽ” sử dụng trong thông báo đã khiến thị trường dầu mỏ bất ngờ.
Tuy vậy, sẽ vẫn còn một chặng đường dài để các nước thành viên khác của OPEC và những quốc gia sản xuất dầu khác đã tham gia đợt cắt giảm sản lượng đầu tiên có thể cùng thực hiện động thái như trên.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do một số nhân tố tác động như sự bất ổn chính trị ở Mỹ, vụ thử tên lửa của CHDCND Triều Tiên và cuộc tấn công mạng trên quy mô toàn cầu…
Giá vàng giao ngay trong phiên vừa qua tăng 0,2% lên 1.230,15 USD/ounce, vàng giao tháng Sáu cũng tăng 0,2% và được giao dịch ở mức 1.230 USD/ounce.
Số liệu kinh tế yếu hơn dự đoán của Mỹ đã đẩy đồng USD đi xuống, khiến cho vàng rẻ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Mặc dù giới đầu tư vẫn kỳ vọng Fed sẽ nâng lãi suất trong tháng Sáu, song số liệu kém hơn dự đoán từ nền kinh tế lớn nhất thế giới đã làm giảm những đồn đoán về các đợt tăng lãi suất tiếp theo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong năm nay.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,1% lên 16,63 USD/ounce, trong khi giá palađi giảm 1,1% xuống còn 797,4 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường biến động, với đường thô tăng 0,1 US cent hay 0,6% lên 15,61 US cent/lb, trong khi đường trắng giao tháng 8 giá giảm 2,9 USD hay 0,7% xuống 439,10 USD/tấn, làm giảm mạnh mức cộng giá đường trắng so với đường thô xuống mức thấp nhất 3 tháng.
Cà phê giảm giá trở lại, với robusta giao tháng 7 giá giảm 25 USD hay 2,3% xuống 1.969 USD/tấn, trong khi arabica giao tháng 7 giảm 1,5 US cent tương đương 1,1% xuống 1,3345 USD/lb.
Thị trường đang theo dõi tình hình cung cầu, với sản lượng triển vọng cao và nguồn cung dồi dào đang gấy áp lực giảm giá.
Thị trường ngũ cốc đang có một số thông tin trái chiều, với dự báo khả năng thời tiết không thuận lợi ở Mỹ khi tình trạng ngập lụt xảy ra ở một số khu vực ở Midwest có thể hỗ trợ giá ngô tăng. Trong khi đó, thị trường đậu tương chịu tác động tiêu cực từ các thông báo ước tính sản lượng thu hoạch tại Nam Mỹ tăng cao. Cơ quan Thống kê Brazil (CONAB) dự báo vụ mùa năm 2016/2017 của nước này đạt sản lượng cao kỷ lục 113 triệu tấn, tăng so với con số dự báo 110,2 triệu tấn đưa ra tháng trước. Nguồn cung lúa mì dồi dào trên quy mô toàn cầu tiếp tục kìm hãm đà phục hồi của giá lúa mỳ. Tuy nhiên, thị trường đã có được sự hỗ trợ từ thông tin thời tiết không thuận ở một số khu vực tại Mỹ có thể sẽ đe dọa đến sản lượng lúa mỳ vụ Đông.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

48,85

+1,01

+1,53%

Dầu Brent

USD/thùng

51,82

+0,98

+1,50%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

36.470,00

+280,00

+0,77%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,35

+0,00

+0,12%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

160,06

+0,52

+0,33%

Dầu đốt

US cent/gallon

151,61

+0,65

+0,43%

Dầu khí

USD/tấn

457,00

-2,00

-0,44%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

49.300,00

+250,00

+0,51%

Vàng New York

USD/ounce

1.233,80

+3,80

+0,31%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.491,00

+12,00

+0,27%

Bạc New York

USD/ounce

16,71

+0,11

+0,64%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,20

+0,80

+1,32%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz,

934,70

+5,30

+0,57%

Palladium giao ngay

USD/t oz,

800,00

+3,23

+0,41%

Đồng New York

US cent/lb

253,20

-0,70

-0,28%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

5.613,00

+53,50

+0,96%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.905,50

+14,50

+0,77%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.571,00

+17,00

+0,67%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.875,00

+30,00

+0,15%

Ngô

US cent/bushel

366,75

-1,00

-0,27%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

422,50

-0,75

-0,18%

Lúa mạch

US cent/bushel

231,25

+1,00

+0,43%

Gạo thô

USD/cwt

10,68

+0,05

+0,42%

Đậu tương

US cent/bushel

965,75

+0,50

+0,05%

Khô đậu tương

USD/tấn

312,10

-0,40

-0,13%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,21

+0,19

+0,58%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

523,30

-0,60

-0,11%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.041,00

+26,00

+1,29%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

133,45

-1,50

-1,11%

Đường thô

US cent/lb

15,61

+0,10

+0,64%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

144,25

-3,30

-2,24%

Bông

US cent/lb

84,58

-0,74

-0,87%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

373,40

+9,20

+2,53%

Cao su TOCOM

JPY/kg

225,00

+5,60

+2,55%

Ethanol CME

USD/gallon

1,51

0,00

-0,07%

Nguồn: VITIC/Reuters. Bloomberg