Trên thị trường năng lượng, giá dầu hồi phục trở lại từ mức thấp nhất trong nhiều tháng, sau số liệu của Chính phủ Mỹ cho thấy nhu cầu đối với nhiên liệu tăng mạnh. Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent tăng 95 US cent (1,52%) lên 63,48 USD/thùng; dầu chuẩn ngọt nhẹ (WTI) tăng 1,2 USD (2,25%) lên 54,63 USD/thùng.
Dự trữ dầu thô Mỹ tuần qua tăng 4,9%, nhiều hơn so với mức dự đoán và là tuần thứ 9 tăng liên tiếp, kỳ tăng dài nhất kể từ tháng 3/2017, theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ. Tuy nhiên, dự trữ dầu thô tại trung tâm phân phối Cushing (Oklahoma) giảm 116.000 thùng, lần giảm đầu tiên trong vòng 9 tuần. Dự trữ xăng cũng giảm 1,3 triệu thùng, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 12/2017, và dự trữ sản phẩm chưng cất giảm 77.000 thùng.
Các chuyên gia nhận định thị trường dầu thô vẫn trong xu hướng giá thấp. Giá dầu Brent đã giảm hơn 25% kể từ mức đỉnh trong bốn năm hôm 3/1/2018 (86,74 USD/thùng), trước dự báo nhu cầu tăng trưởng chậm lại và nguồn cung từ các nhà sản xuất lớn vẫn dư thừa.
Trước mối lo ngại về tình trạng dư thừa nguồn cung, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), Nga và các nhà sản xuất khác đang cân nhắc cắt giảm nguồn cung từ 1-1,4 triệu thùng/ngày tại cuộc họp diễn ra ngày 6/12 tới. Tuy nhiên, các nhà phân tích lưu ý Saudi Arabia có thể gặp khó khăn hơn trong việc hỗ trợ giá dầu, sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đánh giá cao nỗ lực của nước này trong việc hạ thấp giá “vàng đen”.
Ngân hàng Goldman Sachs dự báo giá dầu sẽ còn tiếp tục biến động mạnh trong những tuần tới.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do USD giảm và chưa chắc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ nâng lãi suất.

Vàng giao tháng 12/2018 tăng 6,8 USD (0,6%) lên 1.228 USD/ounce; trong khi đó vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.226,61 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 7/11/2018 là 1.230,07 USD/ounce trước thềm kỳ nghỉ lễ Tạ ơn.
Chỉ số đồng USD, thước đo đánh giá đồng bạc xanh với rổ tiền tệ chính, đã giảm xuống khoảng 96,70 điểm. Đồng USD yếu thường khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với những nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác.
Đồng USD giảm giá trở lại sau những bình luận thận trọng của các quan chức Fed về khả năng kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại đã làm gia tăng những nghi ngại đối với tốc độ nâng lãi suất. Những nghi ngại này xuất phát từ số liệu cho thấy lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần đã tăng lên mức cao của hơn bốn tháng và lượng đơn đặt hàng mới đối với tư liệu sản xuất của Mỹ đã bất ngờ đi ngang trong tháng 10/2018.
Chiến lược gia về thị trường Bob Haberkorn thuộc RJO Futures cho hay với tình hình biến động gần đây trên các thị trường chứng khoán và những số liệu không mấy khả quan từ Mỹ, nhiều nhà đầu tư đang đặt câu hỏi liệu Fed có tiếp tục duy trì kế hoạch nâng lãi suất sau cuộc họp tháng 12 tới hay không và điều đó đang hỗ trợ cho vàng.
Jeffrey Christian, một thành viên của CPM Group, cho biết từ nay đến cuối năm, giá vàng có thể sẽ được giao dịch trong khoảng thấp nhất là 1.180-1.200 USD/ounce và khoảng cao nhất là 1.240 -1.250 USD/ounce.
 Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,3% lên 14,50 USD/ounce. Kim loại quý này đã đạt mức cao nhất kể từ ngày 8/11 là 14,55 USD/ounce trong phiên trước đó. Giá palladium giao ngay tăng 0,9% lên 1.149,99 USD/ounce, còn giá bạch kim giao ngay cũng tăng 0,9% lên 845,50 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng trở lại do USD giảm còn chứng khoán hồi phục thúc đẩy hoạt động mua mạnh. Tuy nhiên, lo ngại về mối quan hệ thương mại Mỹ - Trung gây ảnh hưởng tới nhu cầu của Trung Quốc tiếp tục cản trở đà tăng. Đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,8% lên 6.235 USD/tấn.
Thị trường đồng tinh luyện thế giới đã thiếu hụt 31.000 tấn trong tháng 8/2018, theo số liệu của Cơ quan Nghiên cứu Đồng quốc tế (ICSG). Tính cả 8 tháng đầu năm, mức thiếu hụt là 259.000 tấn, so với thiếu 98.000 tấn cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng đồng toàn cầu tháng 8 vừa qua là 1,96 triệu tấn, trong khi tiêu thụ 1,99 triệu tấn.
Chênh lệch giá giữa hợp đồng giao ngay với giao sau 3 tháng trên thị trường kẽm (trên sàn London) đã lên tới mức cao nhất trong vòng 21 năm, là 97 USD/tấn trong phiên 20/11/2018, do dự trữ tại London giảm. Phiên giao dịch vừa qua, giá kẽm giao sau 3 tháng kết thúc ở mức tăng 0,7% lên 2.586 USD/tấn.
Giá nhôm tại Thượng Hải phiên vừa qua giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 10/2016. Ở mức 13.700 CNY/tấn hiện nay, giá nhôm đã mất 13% kể từ tháng 1/2018. Nhôm giao dịch tại London cũng mất 6% kể từ đầu năm tới nay.
Giá giảm không khuyến khích hoạt động sản xuất, kết quả sản lượng nhôm Trung Quốc giảm mạnh trong tháng qua. Theo Viện Nhôm Quốc tế (IAI), nếu giá không hồi phục, sản lượng có thể sẽ còn giảm tiếp. 
Giá thép cây dùng trong xây dựng tại Trung Quốc giảm hơn 5% trong phiên vừa qua do dự đoán nguồn cung mạnh trong khi nhu cầu sắp vào mùa thấp điểm. Hợp đồng tham chiếu trên sàn Thượng Hải giảm 5,6% vào đầu phiên vừa qua, mức giảm mạnh nhất kể từ 23/3, và kết thúc ở 3.724 CNY (536,44 USD)/tấn, thấp hơn 2% so với đóng cửa phiên trước. Nhiều người cho rằng giá sẽ còn giảm thêm nữa nên không vội vã mua vào lúc này. Một số thương gia dự đoán giá sẽ giảm thêm ít nhất 100 CNY mỗi tấn.
Sản lượng thép thô của Nhật Bản trong tháng 10/2018 giảm 4,5% so với cùng tháng năm ngoái, xuống 8,56 triệu tấn, là tháng thứ 2 liên tiếp giảm, khi các nhà máy tiếp tục ổn định lại sản xuất sau giai đoạn thời tiết khắc nghiệt và trận động đất hồi tháng 9.
Trong khi triển vọng thị trường thép Trung Quốc bấp bênh thì tại Nhật Bản, nhu cầu vững nhờ các ngành sản xuất máy móc và xây dựng đang hoạt động với công suất cao để chuẩn bị cho Olympic Tokyo 2020.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 3/2018 giảm 0,8 US cent (0,7%) xuống 1,141 USD/lb do đồng real Brazil giảm giá. Khối lượng giao dịch ít trước ngày Lễ Tạ ơn. Cà phê robusta giao tháng 1/2019 giảm 10 USD (0,6%) xuống 1.615 USD/tấn.
Nhà phân tích Andrea Thompson của CoffeeNetwork dự báo thị trường thế giới năm 2018/19 sẽ dư thừa nhiều nhất trong vòng 16 năm, thừa khoảng 11 triệu bao (1 bao = 60 kg). Cụ thể, sản lượng của Brazil dự báo sẽ đạt 61 triệu bao, của Việt Nam sẽ đạt 31 triệu bao, và của Colombia sẽ là 14,2 triệu bao. Về niên vụ 2019/2020, CoffeeNetwork cho rằng mức dư thừa sẽ chỉ khoảng 1,1 triệu bao vì sản lượng của Brazil tối đa sẽ chỉ 55 triệu bao. Trong trường hợp Brazil chỉ sản xuất 50 triệu bao thì nguồn cung toàn cầu sẽ chuyển hướng sang thiếu hụt 3,9 triệu bao.
Giá đường thô giao tháng 3 tăng 0,22 US cent tương đương 1,8% xuống 12,68 US cent/lb, lấy lại một phần những gì đã mất trong phiên trước đó. Đường trắng giao tháng 3/2019 tăng 4,2 USD tương đương 1,2% xuống 342,30 USD/tấn.
Giá dầu tăng và Mỹ hạ dự báo sản lượng đường toàn cầu góp phần kéo giá hồi phục. USDA hạ 9 triệu tấn trong dự báo về sản lượng đường năm 2018/19, nhưng cho rằng dự trữ sẽ tăng 1,3 triệu tấn do sản lượng của Ấn Độ tăng.
Giá bông trên thị trường New York tăng trong phiên vừa qua sau 2 phiên giảm trước đó. Lý do bởi các nhà đầu tư mua mạnh trước kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn và thị trường chứng khoán toàn cầu hồi phục. Hợ đồng giao dịch nhiều nhất – kỳ hạn tháng 3 năm sau – tăng 1,44 US cent (1,86%) lên 78,87 US cent/lb vào cuối phiên. Đầu phiên có lúc đạt 79,39 US cent, cao nhất kể từ 11/11. Phiên trước đó (20/11), giá đã xuống thấp nhất trong vòng 1 tháng.
Thị trường cao su cũng tiếp tục giảm giá. Tại Tokyo, hợp đồng giao tháng 4 năm sau giảm 0,7 JPY (0,0062 USD) xuống 152,9 JPY/kg; trong khi tại Thượng Hải, hợp đồng giao tháng 1 năm sau giảm 95 CNY (13,69 USD) xuống 10.855 CNY/tấn, và tại Singapore hợp đồng giao tháng 12 tới giảm 1,5 US cent xuống 120 US cent/kg. Tại các nước sản xuất chủ chốt như Thái Lan, Malaysia, Indonesia…, giá cũng giảm khoảng 0,01 USD/kg. Tình hình thương mại quốc tế đang xấu đi. Mỹ trong tháng này đã quyết định sẽ tái xem xét thuế chống bán phá giá đối với lốp xe Trung Quốc.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

54,65

+0,02

+0,04%

Dầu Brent

USD/thùng

63,48

+0,95

+1,52%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

43.640,00

+290,00

+0,67%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

4,47

+0,02

+0,38%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

150,42

-0,65

-0,43%

Dầu đốt

US cent/gallon

197,40

+0,38

+0,19%

Dầu khí

USD/tấn

606,00

-7,00

-1,14%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

61.130,00

+100,00

+0,16%

Vàng New York

USD/ounce

1.226,70

-1,30

-0,11%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.446,00

+26,00

+0,59%

Bạc New York

USD/ounce

14,49

-0,01

-0,08%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,60

+0,40

+0,77%

Bạch kim

USD/ounce

846,52

+0,17

+0,02%

Palađi

USD/ounce

1.150,72

-0,83

-0,07%

Đồng New York

US cent/lb

279,75

-1,05

-0,37%

Đồng LME

USD/tấn

6.184,00

-75,00

-1,20%

Nhôm LME

USD/tấn

1.940,00

+6,00

+0,31%

Kẽm LME

USD/tấn

2.551,00

-49,00

-1,88%

Thiếc LME

USD/tấn

19.400,00

-200,00

-1,02%

Ngô

US cent/bushel

372,75

+0,50

+0,13%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

506,75

-1,75

-0,34%

Lúa mạch

US cent/bushel

294,50

-9,00

-2,97%

Gạo thô

USD/cwt

10,79

+0,05

+0,47%

Đậu tương

US cent/bushel

883,00

+2,00

+0,23%

Khô đậu tương

USD/tấn

308,70

-0,50

-0,16%

Dầu đậu tương

US cent/lb

27,99

+0,47

+1,71%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

479,00

+1,80

+0,38%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.145,00

-45,00

-2,05%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

114,10

-0,80

-0,70%

Đường thô

US cent/lb

12,68

+0,22

+1,77%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

140,20

+1,00

+0,72%

Bông

US cent/lb

78,78

+1,35

+1,74%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

365,70

+9,70

+2,72%

Cao su TOCOM

JPY/kg

154,40

+1,50

+0,98%

Ethanol CME

USD/gallon

1,28

+0,03

+2,32%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg