Trên thị trường năng lượng, giá dầu WTI tăng trong khi Brent giảm giữa bối cảnh những căng thẳng liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran đã át đi những lo ngại về việc tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại sẽ tác động đến nhu cầu dầu.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 12 UScent xuống 64,11 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 15 UScent lên 57,66 USD/thùng.
Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 7/7 cảnh báo Tehran "nên thận trọng" với quyết định gia tăng hoạt động làm giàu uranium. Tuy nhiên, ngày 8/7 Iran đã đe dọa sẽ khởi động lại các máy ly tâm vốn ngừng hoạt động, và tăng cường làm giàu uranium lên 20% trong một động thái làm gia tăng đe dọa đối với thỏa thuận hạt nhân năm 2015 mà Washington đã rút khỏi năm ngoái.
Theo Kế hoạch Hành động chung toàn diện (JCPOA) ký kết năm 2015 giữa Iran và Nhóm P5+1 (gồm Nga, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc và Đức), Iran hạn chế chương trình hạt nhân của nước này để đổi lấy việc được dỡ bỏ trừng phạt. Thỏa thuận quy định Iran chỉ được làm giàu uranium ở mức 3,67%, thấp hơn nhiều so với mức 90% để chế tạo vũ khí hạt nhân và mức 20% mà Iran đã thực hiện trước khi thỏa thuận được ký kết.
Bộ trưởng Dầu mỏ Iran Bijan Zanganeh cùng ngày nói rằng ông rất hy vọng hoạt động xuất khẩu dầu nước này được cải thiện.
Bên cạnh đó, giá dầu vẫn đang chịu sức ép trước những lo ngại về nhu cầu “vàng đen” trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đã “phủ bóng mây” lên triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Lượng đơn đặt hàng máy móc lõi tháng Năm của Nhật Bản đã giảm lần đầu tiên trong bốn tháng do lo ngại rằng căng thẳng thương mại toàn cầu đang tác động xấu đến đầu tư doanh nghiệp.
Ngân hàng Goldman Sachs cho hay tốc độ tăng sản lượng dầu khí đá phiến của Mỹ có thể sẽ vượt nhu cầu dầu ít nhất đến hết năm 2020 và làm hạn chế đà tăng của giá dầu bất chấp thỏa thuận cắt giảm sản lượng do Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) dẫn dắt.
Sản lượng dầu của OPEC trong tháng 6/2019 đã giảm xuống mức thấp nhất trong 5 năm, chạm mức thấp kỉ lục mới, khi nguồn cung tăng từ Arab Saudi không thể cân bằng sự sụt giảm của Iran và Venezuela dưới tác động từ lệnh trừng phạt của Mỹ.
Mỹ lần nữa áp lệnh trừng phạt đối với Iran vào tháng 11/2018 sau khi rút khỏi thỏa thuận hạt nhân 2015 giữa Tehran và 6 cường quốc kinh tế với mục đích đưa xuất khẩu dầu Iran xuống bằng 0. Washington đã chấm dứt lệnh miễn trừ cho các nhà nhập khẩu dầu Iran trong tháng này. Xuất khẩu dầu thô của Iran đã giảm xuống dưới 400.000 thùng/ngày từ hơn 2,5 triệu thùng/ngày trong tháng 4/2018.
Tại Venezuela, nguồn cung giảm nhẹ trong tháng 6 vì tác động từ lệnh trừng phạt của Mỹ đối với công ty dầu quốc doanh PDVSA và sản lượng giảm trong dài hạn, theo Reuters.
Trong số các quốc gia bơm thêm dầu, Arab Saudi tăng nguồn cung thêm 100.000 thùng dầu/ngày lên 9,8 triệu thùng/ngày từ mức điều chỉnh trong tháng 5. Con số này vẫn thấp hạn ngạch của OPEC là 10.311 thùng/ngày.
Kết quả khảo sát từ Reuters cho thấy 14 thành viên của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã bơm 29,6 triệu thùng dầu/ngày trong tháng 6, giảm 170.000 thùng/ngày so với dữ liệu đã được điều chỉnh của tháng 5. Đây cũng là mức sản lượng thấp nhất của OPEC kể từ năm 2014.
Trong tháng 6, 11 thành viên đã hoàn thành 156% cam kết thực hiện thỏa thuận, nhiều hơn tháng 5, vì sản lượng thấp tại Iraq, Kuwait và Angola. Ngoài ra, cả ba nhà sản xuất không phải thực hiện thỏa thuận cũng bơm ít dầu hơn.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm khỏi mức cao nhất 5 tuần trong phiên trước đó, do sản lượng đạt gần mức cao kỷ lục và dự báo nhu cầu trong 2 tuần tới sẽ thấp hơn so với dự báo trước đó.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn New York giảm 1,5 US cent tương đương 0,6% xuống 2,403 USD/mBTU, sau khi tăng gần 6% trong phiên trước đó lên mức cao nhất kể từ ngày 31/5/2019.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do thị trường cho rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ không cắt giảm mạnh lãi suất vào cuối tháng này khiến đồng USD mạnh.
Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 1.396,56 USD/ounce; vàng giao kỳ hạn ổn định ở mức 1.400 USD/ounce.
Các thị trường đang chờ đợi buổi điều trần thường kỳ nửa năm của Chủ tịch Fed Jerome Powell trước Quốc hội Mỹ trong tuần này về "sức khỏe" của nền kinh tế để tìm manh mối triển vọng chính sách tiền tệ trong ngắn hạn.
David Meger, Giám đốc phụ trách mảng giao dịch kim loại tại High Ridge Futures, cho rằng một cuộc đua nới lỏng tiền tệ trên toàn cầu có thể được khơi mào nếu Fed hạ lãi suất và những căng thẳng ở Trung Đông xung quanh vấn đề Iran sẽ tiếp tục hỗ trợ giá vàng.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,4% lên 15,03 USD/ounce, trong khi palađi giảm 0,4% xuống 1.560 USD/ounce, còn bạch kim tăng 1,6% lên 817 USD/ounce.
Các ngân hàng trung ương đang tăng dự trữ vàng trong năm 2019 vì tăng trưởng kinh tế chậm lại, căng thẳng thương mại và địa chính trị leo thang, và một số chính phủ muốn đa dạng hóa dự trữ quốc gia thay cho đồng USD.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc ngày 8/7/2019 cho biết đã tăng dự trữ vàng thêm 10,3 tấn trong tháng 6, đánh dấu tháng tăng thứ 7 liên tiếp. Tuần trước, Ba Lan cũng cho biết tài sản vàng của quốc gia này tăng hơn hai lần trong năm nay, theo đó trở thành nhà dự trữ vàng lớn nhất tại khu vực Trung Âu. Lượng vàng thu mua từ các ngân hàng trung ương làm tăng tổng nhu cầu, với Nga là người mua "trung thành" của tài sản an toàn truyền thống, theo Bloomberg.
"Ngoài nỗ lực đa dạng hóa việc nắm giữ đồng USD, dự trữ vàng cũng là một chiến lược quan trọng của Trung Quốc trong việc trở thành một cường quốc", theo Howie Lee, một chuyên gia kinh tế tại Oversea-Chinese Banking. Ông Lee cho biết thêm dự trữ vàng có thể tiếp tục tăng trong những tháng tới.
Năm ngoái, các ngân hàng trung ương mua 651,5 tấn vàng, tăng 74% so với năm 2017, báo cáo từ Hội đồng Vàng Thế giới cho biết hồi tháng 1.
Trong tháng 4, Citigroup dự báo thu mua vàng chính thức có thể đạt 700 tấn trong năm nay, với giả thiết Trung Quốc tiếp tục mua và lượng vàng dự trữ của Nga ít nhất tương đương mức của năm 2018 là 275 tấn.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm khi tập trung chuyển sang chiến tranh thương mại Mỹ - Trung kéo dài, ảnh hưởng đến tăng trưởng toàn cầu và đồng USD tăng mạnh. Giá đồng kỳ hạn trên sàn London giảm 0,2% xuống 5.892 USD/tấn. Ngành công nghiệp Trung Quốc chiếm khoảng 1/2 tiêu thụ kim loại công nghiệp toàn cầu. Thị trường đang hướng tới số liệu của Trung Quốc về các khoản vay ngân hàng.
Trong khi đó, giá kẽm giảm 1,2% xuống 2.378 USD/tấn, thấp nhất 6 tháng. Giá kẽm chịu áp lực giảm do dự kiến nguồn cung gia tăng.
Giá quặng sắt tại Đại Liên tăng trở lại, được thúc đẩy bởi kỳ vọng nhu cầu tăng mạnh, bất chấp dự trữ nguyên liệu sản xuất thép tại các cảng của Trung Quốc tăng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Đại Liên tăng 1,9% lên 861 CNY (124,95 USD)/tấn, sau khi giảm trong đầu phiên giao dịch và đảo chiều tăng mạnh 2,5%. Tuy nhiên, tính đến nay giá quặng sắt vẫn giảm 5,5% từ mức cao kỷ lục 911,5 CNY/tấn trong ngày 3/7/2019.
Trong khi đó, giá thép cây kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 0,6% xuống 3.992 CNY/tấn. Giá thép cuộn cán nóng giảm 0,2% xuống 3.871 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê giảm khỏi mức cao nhất năm 2019 do sương giá vào cuối tuần qua ảnh hưởng đến cây trồng tại Brazil. Trong khi giá ca cao tăng cao nhất 1 năm do hoạt động đẩy mạnh mua vào và lo ngại về việc thực hiện giá sàn mà các nước trồng hàng đầu Ivory Coast và Ghana đã công bố vào tháng trước.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn ICE giảm 4,7 US cent, tương đương 4,2% xuống 1,064 USD/lb, trong phiên có lúc chạm 1,053 USD/lb, thấp nhất gần 2 tuần. Giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE giảm 18 USD tương đương 1,3% xuống 1.426 USD/tấn.
Giá ca cao kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn New York tăng 114 USD tương đương 4,6% lên 2.577 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.589 USD/tấn, cao nhất 1 năm. Giá ca cao kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn London tăng 96 GBP tương đương 5,2% lên 1.935 GBP/tấn, trong phiên có lúc đạt 1.939 GBP/tấn, cao nhất kể từ tháng 5/2018.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn ICE tăng 0,09 US cent tương đương 0,7% lên 12,45 US cent/lb. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn ICE tăng 1,7 USD tương đương 0,5% lên 321,5 USD/tấn.
Giá ngô và đậu tương tại Mỹ đều tăng do dự báo thời tiết khô và nóng tại khu vực trung tây Mỹ trong vài ngày tới. Giá ngô kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Chicago tăng 3/4 US cent lên 4,39-1/2 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn Chicago tăng 3 US cent lên 8,79 USD/bushel.
Giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Chicago giảm 4 US cent xuống 5,11 USD/bushel.
Thị trường ngũ cốc hướng tới dự báo cung cầu hàng tháng của USDA vào ngày thứ năm (11/7/2019).
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm, do dự kiến sản lượng dầu cọ trong tháng 7/2019 sẽ tăng trong bối cảnh nhu cầu suy yếu. Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Bursa Malaysia giảm 0,8% xuống 1.945 ringgit (469,52 USD)/tấn, phiên giảm thứ 3 liên tiếp.
Giá cao su tại Tokyo giảm theo xu hướng giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải, sau khi cơ quan quản lý chứng khoán Trung Quốc chấp thuận giao dịch hợp đồng kỳ hạn cao su TSR20.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn TOCOM giảm 0,6 JPY (0,0055 USD) xuống 181 JPY/kg. Trong khi, giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn TOCOM tăng 2,4 JPY lên 154 JPY/kg.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 255 CNY (37,03 USD)/tấn xuống 11.020 CNY/tấn. Trung Quốc sẽ bắt đầu giao dịch hợp đồng kỳ hạn cao su TSR20 từ ngày 12/8/2019, Ủy ban điều tiết chứng khoán cho biết.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

57,66

+0,15

 

Dầu Brent

USD/thùng

64,11

-0,12

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

40.680,00

+60,00

+0,15%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,39

-0,01

-0,42%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

189,81

-0,32

-0,17%

Dầu đốt

US cent/gallon

189,00

-0,53

-0,28%

Dầu khí

USD/tấn

573,75

-5,50

-0,95%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

58.510,00

+40,00

+0,07%

Vàng New York

USD/ounce

1.394,70

-5,30

-0,38%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.861,00

-10,00

-0,21%

Bạc New York

USD/ounce

15,02

-0,03

-0,20%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,60

+0,40

+0,77%

Bạch kim

USD/ounce

809,84

-7,43

-0,91%

Palađi

USD/ounce

1.558,48

-3,31

-0,21%

Đồng New York

US cent/lb

265,05

-0,85

-0,32%

Đồng LME

USD/tấn

5.892,00

-10,00

-0,17%

Nhôm LME

USD/tấn

1.809,00

+6,00

+0,33%

Kẽm LME

USD/tấn

2.378,00

-29,00

-1,20%

Thiếc LME

USD/tấn

18.495,00

+145,00

+0,79%

Ngô

US cent/bushel

441,25

-2,50

-0,56%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

507,75

-3,25

-0,64%

Lúa mạch

US cent/bushel

280,00

+0,75

+0,27%

Gạo thô

USD/cwt

11,70

-0,03

-0,26%

Đậu tương

US cent/bushel

895,50

-2,25

-0,25%

Khô đậu tương

USD/tấn

311,70

-0,60

-0,19%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,46

-0,02

-0,07%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

447,90

+0,60

+0,13%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.577,00

+114,00

+4,63%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

106,40

-4,70

-4,23%

Đường thô

US cent/lb

12,45

+0,09

+0,73%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

105,55

+3,55

+3,48%

Bông

US cent/lb

65,01

-0,63

-0,96%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

377,20

-6,70

-1,75%

Cao su TOCOM

JPY/kg

178,20

-2,80

-1,55%

Ethanol CME

USD/gallon

1,52

-0,01

-0,65%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters

 

 

Nguồn: vinanet