Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm trở lại trong phiên cuối tuần bởi giới đầu tư vẫn hoài nghi các nước sản xuất chủ chốt sẽ có thể thực tế hóa kế hoạch đạt được hồi tháng 9 và thị trường vẫn thừa cung.
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 11/2016 trên sàn New York giảm 9 cent, tương ứng 0,18%, xuống 50,35 USD/thùng, giá dầu Brent giao tháng cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 8 cent, tương đương 0,15%, xuống 51,95 USD/thùng. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá vẫn tăng trên 1%, ghi nhận tuần tăng thứ 4 liên tiếp, cũng là đợt tăng dài nhất kể từ tháng 4.
Giới phân tích nghi ngờ việc giá dầu sẽ tiếp tục tăng. Theo số liệu của Baker Hughes, số giàn khoan của Mỹ trong tuần kết thúc vào 14/10 tăng thêm 4 giàn, đánh dầu tuần tăng thứ 7 liên tiếp.
Bên cạnh đó, giới phân tích và nhà đầu tư cũng đang theo dõi sát sao quan điểm của Nga về việc cắt giảm sản lượng do OPEC đề xuất. Sản lượng dầu thô của Nga trong tháng 9 đạt trên 11 triệu thùng/ngày, cao kỷ lục trong thời hậu Xô-viết.
OPEC sẽ có phiên họp chính thức vào cuối tháng 11 để thảo luận chi tiết kế hoạch cắt giảm sản lượng. Mục tiêu của OPEC là hạn chế sản lượng dầu thô ở dưới 33 triệu thùng/ngày so với 33,39 triệu thùng hiện nay.
Theo một thương nhân, ngay cả khi OPEC đồng ý cắt giảm sản lượng, sẽ mất nhiều tháng để thực thi trước khi thị trường cân bằng hoặc thiếu cung. Rất nhiều điều có thể xảy ra trong quãng thời gian này.
Cán cân cung-cầu dầu thô toàn cầu
Phân tích kỹ thuật dầu Brent
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm trong phiên cuối tuần do USD mạnh lên sau khi số liệu kinh tế Mỹ vượt kỳ vọng, làm tăng đồn đoán Fed nâng lãi suất vào cuối năm. Giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.254,26 USD/ounce, vàng giao tháng 12/2016 giảm 0,2% xuống 1.255,5 USD/ounce.
Chỉ số đôla tăng 0,4% so với các đồng tiền chủ chốt trong giỏ tiền tệ.
Doanh số bán lẻ của Mỹ trong tháng 9 tăng 0,6% trong khi giá sản xuất có mức tăng lớn nhất kể từ tháng 12/2014.
Tỷ lệ dự đoán Fed nâng lãi suất vào tháng 12 hiện là 70%. Chủ tịch Fed Boston Eric Rosengren cho rằng giới đầu tư có thể đúng khi đặt cược cao vào khả năng Fed nâng lãi suất trong tháng 12.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,05% xuống 17,44 USD/ounce; trong khi đó, giá bạch kim tăng 0,1% lên 937 USD/ounce và giá palladium tăng 1,3% lên 646 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, đồng giảm giá xuống mức thấp nhất 1 tháng trong phiên cuối tuần do USD tăng và hãng luyện kim lớn nhất châu Âu - Aurubis của Đức – hạ giá bán cho khách hàng.
Thị trường đồng có thêm dấu hiệu dư thừa khi tồn trữ ở kho tại Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 13%.
Trên thị trường nông sản, giá dầu đậu tương tăng kéo giá đậu tương tăng theo. Lúa mì và ngô cũng có chung xu hướng tăng giá do hoạt động mua mạnh. Dầu đậu tương lên mức giá cao nhất kể từ 23/8.
Cà phê robusta duy trì ở mức cao nhất trong vòng 2 năm. Robusta kỳ hạn tháng 11 trên sàn London phiên cuối tuần tăng 7 USD hay 0,3% lên 2.044 USD/tấn. Trong phiên có lúc giá đạt mức cao nhất kể từ tháng 12/2014 là 2.056 USD/tấn.
Cà phê arabica trên sàn New York cũng tăng 2,65-2,7 cent/lb.
Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) đã nâng dự báo sản lượng cà phê niên vụ 2015-2016, chủ yếu do sản lượng cà phê của Colombia tăng lên, nhưng vẫn dự báo tình trạng thiếu hụt cà phê toàn cầu.
ICO dự đoán niên vụ 2015-2016 thế giới thiếu hụt 3,3 triệu bao, ghi nhận thiếu hụt năm thứ 2 liên tiếp. Sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2015-2016 ước đạt 148 triệu bao, tăng 0,9% so với niên vụ trước.Sản lượng cà phê của Brazil ước đạt 48,4 triệu bao, giảm 5,4% so với niên vụ 2014-2015 do hạn hán năm 2014. Trong khi đó, sản lượng cà phê của Việt Nam năm 2015-2016 đạt 27,5 triệu bao, tăng 3,8% so với niên vụ trước.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá 8/10
|
Giá 15/10
|
Giá 15/10 so với 14/10
|
Giá 15/10 so với 14/10 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
49,81
|
50,35
|
-0,09
|
-0,18%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
51,93
|
51,95
|
-0,08
|
-0,15%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
32.210,00
|
32.970,00
|
-20,00
|
-0,06%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,17
|
3,28
|
0,00
|
-0,03%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
147,77
|
149,36
|
+1,18
|
+0,80%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
157,93
|
156,73
|
-1,23
|
-0,78%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
468,50
|
461,25
|
-4,50
|
-0,97%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
42.710,00
|
43.210,00
|
-20,00
|
-0,05%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.251,90
|
1.255,50
|
-2,10
|
-0,17%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.145,00
|
4.177,00
|
-5,00
|
-0,12%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,58
|
17,44
|
-0,02
|
-0,10%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
57,10
|
58,50
|
+0,40
|
+0,69%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
968,00
|
935,74
|
-1,55
|
-0,17%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
669,40
|
646,05
|
+6,38
|
+1,00%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
216,35
|
211,05
|
-1,15
|
-0,54%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.778,00
|
4.675,00
|
-37,00
|
-0,79%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.675,00
|
1.675,00
|
-17,00
|
-1,00%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.324,00
|
2.258,00
|
+18,00
|
+0,80%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.000,00
|
19.450,00
|
-35,00
|
-0,18%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
339,75
|
354,25
|
+4,75
|
+1,36%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
394,75
|
421,00
|
+5,00
|
+1,20%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
190,75
|
198,75
|
+3,00
|
+1,53%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,10
|
10,16
|
-0,07
|
-0,68%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
956,75
|
962,50
|
+6,25
|
+0,65%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
300,20
|
300,60
|
-1,70
|
-0,56%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,31
|
34,38
|
+1,00
|
+3,00%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
469,80
|
487,50
|
+7,40
|
+1,54%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.785,00
|
2.718,00
|
+22,00
|
+0,82%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
148,00
|
155,40
|
+2,70
|
+1,77%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
23,42
|
22,91
|
-0,01
|
-0,04%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
198,10
|
188,45
|
-3,00
|
-1,57%
|
Bông
|
US cent/lb
|
66,98
|
70,57
|
+1,26
|
+1,82%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
343,10
|
323,40
|
-4,60
|
-1,40%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
173,70
|
184,40
|
+1,10
|
+0,60%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,52
|
1,58
|
+0,02
|
+1,15%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg