Trên thị trường năng lượng, giá dầu phiên cuối tuần giảm xuống mức thấp nhất một tháng khi xuất khẩu dầu của OPEC tăng, việc tạm dừng hoạt động đường ống dẫn xăng tại Mỹ gây áp lực lên giá.
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 10/2016 trên sàn New York giảm 88 cent, tương ứng 2%, xuống 43,03 USD/thùng, dầu Brent giao tháng 11/2016 trên sàn London giảm 82 cent, tương đương 1,8%, xuống 45,77 USD/thùng. Tính chung cả tuần giá dầu WTI mất 6,2%, dầu Brent giảm 4,7%.
Giá dầu chịu áp lực vì việc hệ thống đường ống dẫn bị tạm ngừng sẽ khiến lượng dầu lưu kho tăng lên. Hiện lượng dầu thô và xăng lưu kho của Mỹ vẫn duy trì ở mức cao.
Theo giới đầu tư, nguồn cung dầu của OPEC có thể tiếp tục tăng. Royal Dutch Shell và Exxon Mobil đều đã dỡ bỏ tình trạng "bất khả kháng" về xuất khẩu dầu của Nigeria. Trong khi đó, Libya cũng đang lên kế hoạch nối lại hoạt động xuất khẩu dầu từ cảng Ras Lanuf.
Nhiều nhà đầu tư đặt cược rằng lượng dầu lưu kho của Mỹ sẽ tăng khi Colonial Pipeline đóng cửa một phần hệ thống đường ống dẫn xăng đến các bang miền đông từ Texas và cho biết, chưa thể tái khởi động toàn bộ hệ thống cho đến tuần sau. Colinial Pipeline vận chuyển khoảng 40% lượng xăng tiêu thụ tại Bờ Đông và đóng vài trò đặc biệt quan trọng đối với thị trường nhiện liệu tại các bang miền đông nam Mỹ.
Tình trạng thừa cung đã khiến giá dầu liên tục giảm trong mùa hè và một số nhà đầu tư cho rằng tình trạng này còn kéo dài trong nhiều tuần thậm chí nhiều tháng tới.

Thị trường đang hướng sự chú ý đến phiên họp bàn về việc đóng băng sản lượng giữa các nước thành viên OPEC và Nga tại Algeria vào cuối tháng 9 này.

Sản lượng dầu OPEC (Saudi Arabia, Iraq, Iran, Nigeria, Libya) so với ngoài OPEC (Mỹ, Nga)

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần chạm mức thấp nhất 2 tuần sau khi số liệu cho thấy CPI tháng 8 Mỹ tốt hơn dự báo, tăng đồn đoán Fed nâng lãi suất. Lạm phát là yếu tố chủ chốt mà Ngân hàng trung ương Mỹ đang cân nhắc khi quyết định chính sách tiền tệ.

Giá vàng giao ngay kết thúc phiên cuối tuần giảm 0,4% xuống 1.308,33 USD/ounce, vàng giao tháng 12/2016 tại New York cũng giảm 0,6% xuống 1.310,2 USD/ounce. Cả tuần giá vàng giảm 1,5%, ghi nhận tuần giảm đầu tiên trong 3 tuần qua.
Giới phân tích cho rằng số liệu giá tiêu dùng (CPI) tăng tốt đã hỗ trợ USD trong khi gây áp lực lên giá vàng. USD tăng 0,8% so với các đồng tiền chủ chốt trong giỏ tiền tệ.
Tuy triển vọng Fed nâng lãi suất trong phiên họp tháng 9 này vẫn rất mờ nhạt, song kết quả khảo sát 100 nhà kinh tế học của Reuters cho thấy, 70% số họ dự đoán Fed sẽ nâng lãi suất vào tháng 12.
Fed và Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) sẽ họp chính sách vào ngày 20-21/9 tới đây. Fed sẽ ra thông báo vào lúc 14h giờ New York thứ Tư 21/9.
Nhu cầu vàng vật chất tại Ấn Độ vẫn ảm đạm trong tuần này khi giá cao khiến cầu yếu.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,8% xuống 18,80 USD/ounce, giá bạch kim giảm 2,5% xuống 1.005 USD/ounce trong khi đó giá palladium tăng 2,4% lên 670,40 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng vừa trải qua tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 7.
Phiên cuối cuần, đồng tăng lên mức giá cao nhất trong vòng 3 tuần trước khi giảm nhẹ vào lúc đóng cửa do USD vững lên, nhưng tính chung cả tuần vẫn tăng mạnh nhất 2 tháng sau số liệu từ Trung Quốc cho thấy kinh tế nước này có triển vọng sẽ tăng trưởng mạnh lên trong vài tháng tới. Đó là thị trường nhà đất và các chỉ số sản xuất trong mùa hè vừa qua.
Đồng kỳ hạn 3 tháng trên sàn London tăng 0,1% lúc đóng cửa phiên cuối tuần, lên 4.787 USD/tấn. Trong phiên có lúc giá đạt 4.794,50 USD/tấn, cao nhất kể từ 22/8. Tính chung cả tuần giá tăng 3,3%, mạnh nhất từ giữa tháng 7.
Trong số các kim loại cơ bản, nickel giảm giá mạnh nhất trong tuần qua, giảm 6% - nhiều nhất kể từ tháng 7/2015, do giảm bớt lo ngại về nguồn cung từ mỏ kẽm Philippines, mặc dù phiên cuối tuần giá nickel tăng nhẹ 0,2% lên 9.725 USD/tấn do Norilsk Nickel của Nga thong báo kế hoạch tăng giá lên khoảng 10.000 USD/tấn và cuối năm nay và duy trì giá đó tới 2017.
Đồng USD mạnh lên cản trở giá các kim loại khác tăng, với thiếc và nhôm đều tăng nhẹ vào lúc đóng cửa phiên cuối tuần, còn chì và kẽm giảm.
Trên thị trường nông sản, đường chạm mức giá cao nhất 4 năm do lo ngại về nguồn cung ở Brazil. Đường thô kỳ hạn tháng 3 trên sàn New York giá tăng 8% phiên cuối tuần lên 22,86 US cent, cao nhất kể từ tháng 8/2012. Rabobank dự báo thế giới sẽ thiếu hụt 7,2 triệu tấn đường trong niên vụ 2016/17, sau khi thiếu 7,9 triệu tấn niên vụ trước đó.
Cà phê diễn biến thất thường. Tại London, Robusta tăng nhẹ 1-2 USD/tấn trong phiên cuối tuần, nhưng tại New York, Arabica lại giảm 0,35-0,5 cent/lb.
Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) cho biết, xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 7/2016 đạt 7,75 triệu bao, giảm 22,02% so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu cà phê trong 10 tháng đầu niên vụ 2015-2016 giảm 1,7% so với cùng kỳ năm trước.
Cũng theo ICO, trong 12 tháng tính đến tháng 7/2016, xuất khẩu cà phê Arabica dạt 70,3 triệu bao so với 68,51 triệu bao năm trước, trong khi xuất khẩu Robusta đạt 40,82 triệu bao so với 44,88 triệu bao năm trước.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá 10/9

Giá 17/9

Giá 17/9 so với 16/9

Giá 17/9 so với 16/9 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

45,88

43,03

-0,88

-2,00%

Dầu Brent

USD/thùng

48,01

45,77

-0,82

-1,76%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

29.610,00

28.440,00

+230,00

+0,82%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,80

2,95

+0,02

+0,72%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

136,11

146,16

+3,14

+2,20%

Dầu đốt

US cent/gallon

143,04

140,51

-1,11

-0,78%

Dầu khí

USD/tấn

427,50

412,50

-2,50

-0,60%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

40.710,00

39.460,00

+330,00

+0,84%

Vàng New York

USD/ounce

1.334,50

1.310,20

-7,80

-0,59%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.364,00

61,90

-0,20

-0,32%

Bạc New York

USD/ounce

19,37

18,84

-0,03

-0,14%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,80

61,90

-0,20

-0,32%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

1.062,40

1.020,38

-11,72

-1,14%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

675,00

673,50

+16,97

+2,58%

Đồng New York

US cent/lb

209,25

216,00

+0,05

+0,02%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

4.633,00

4.788,00

+7,00

+0,15%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.578,50

1.575,50

+3,50

+0,22%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.291,50

2.215,00

-16,00

-0,72%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.300,00

19.100,00

+55,00

+0,29%

Ngô

US cent/bushel

341,00

337,00

+7,00

+2,12%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

403,50

403,25

+3,75

+0,94%

Lúa mạch

US cent/bushel

177,25

175,75

+2,75

+1,59%

Gạo thô

USD/cwt

9,52

9,82

+0,03

+0,26%

Đậu tương

US cent/bushel

980,25

966,00

+15,50

+1,63%

Khô đậu tương

USD/tấn

316,50

312,80

+5,60

+1,82%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,37

32,23

-0,05

-0,15%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

465,70

457,00

+1,30

+0,29%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.762,00

2.803,00

-29,00

-1,02%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

151,15

148,40

-0,50

-0,34%

Đường thô

US cent/lb

20,69

22,47

+1,31

+6,19%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

197,45

196,70

+2,10

+1,08%

Bông

US cent/lb

69,08

67,28

-0,44

-0,65%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

309,40

303,90

+2,90

+0,96%

Cao su TOCOM

JPY/kg

157,60

157,70

-0,20

-0,13%

Ethanol CME

USD/gallon

1,49

1,40

+0,01

+0,79%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg

 

Nguồn: Vinanet