Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mạnh do thị trường hoài nghi việc OPEC có thể đạt được thỏa thuận hợp tác và kiềm chế nguồn cung trong .
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 11/2016 trên sàn New York giảm 1,84 USD, tương ứng 4%, xuống 44,48 USD/thùng, ghi nhận phiên giảm mạnh nhất kể từ 13/7 và xóa sạch đà tăng có được 4 phiên trước đó. Tuy vậy, cả tuần giá dầu WTI vẫn tăng 2%. Giá dầu Brent giao tháng 11/2016 trên sàn London giảm 1,76 USD, tương đương 3,7%, xuống 45,89 USD/thùng. Cả tuần giá dầu Brent tăng 0,3%.
Giá dầu giảm mạnh ngay sau khi Bloomberg News đưa tin Arab Saudi không cho rằng OPEC sẽ đạt được thảo thuận trong phiên họp vào ngày 28/9 tại Algiers, thủ đô Algeria.
Trong tuần này, Arab Saudi và Iran đã có ý kiến bất đồng về việc giới hạn sản lượng khi nhóm họp tại trụ sở OPEC ở Vienna, Áo, Wall Street Journal đưa tin. Arab Saudi và Iran không thể nhất trí về số liệu được sử dụng để xác định mức sản lượng áp dụng cho thỏa thuận đóng băng.

Trong khi đó, với 11 triệu thùng/ngày, sản lượng dầu thô của Nga đang ở mức cao nhất thời kỳ hậu Xô-viết. Nói cách khác, thị trường dầu thô vẫn trong tình trạng thừa cung, Commerzbank cho biết.

Giá khí gas hoá lỏng (LNG) trên thị trường châu Á tăng do nhu cầu từ Ấn Độ và Hàn Quốc. LNG kỳ hạn giao tháng 11 giá tăng khoảng 15 US cent trong tuần qua, lên 5,75 USD/mmBtu theo xu hướng giá tăng trên thị trường Anh. Khí gas tại Anh tuần này tăng 12% lên 4,80 USD/mmBtu do một kho chứa khí lớn đóng cửa.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần tăng nhẹ trong bối cảnh USD vững giá.
Vàng giao ngay giá tăng 0,03% lên 1.337,01 USD/ounce, giảm so với mức đỉnh 2 tuần ở 1.343,64 USD/ounce hôm 22/9. Tuy nhiên, cả tuần giá vàng giao ngay vẫn tăng hơn 2%, đánh dấu tuần tăng tốt nhất kể từ cuối tháng 7. Trái lại, vàng giao tháng 12/2016 trên sàn Comex (New York) giảm 0,2% xuống 1.341,7 USD/ounce trong phiên cuối tuần.
Trên thị trường châu Á, vàng cũng vừa qua tuần tăng giá mạnh nhất trong vòng gần 2 tháng, chốt ở 1.334,71 USD/ounce (tăng gần 2% trong tuần).
Fed đã đánh tín hiệu sẽ tiến hành nâng lãi suất một cách thận trọng sau phiên họp chính sách kết thúc hôm 21/9, phần nào xoa dịu lo ngại của các nhà đầu tư - từng sợ rằng Ngân hàng trung ương Mỹ có thể nhanh chóng thắt chặt chính sách tiền tệ.
Thị trường cho rằng Fed sẽ có rất ít khả năng nâng lãi suất trong phiên họp tháng 11, trước thềm cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, nhưng mọi người đang chờ tín hiệu tiếp theo: liệu Fed có quyết tâm hành động vào tháng 12 hay không.
Phiên họp chính sách tiếp theo của Fed sẽ diễn ra vào ngày 1-2/11, trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ ngày 8/11.
Theo giới phân tích, giá vàng đã được hỗ trợ khi Fed tỏ ra chủ hòa hơn. Nhưng cuối cùng, mọi người nhận ra rằng việc nâng lãi suất vào tháng 12 hoàn toàn có thể xảy ra, do vậy, sẽ rất nguy hiểm khi đẩy giá vàng lên trên mức đỉnh hiện nay.
Thị trường chứng khoán, bất chấp đà giảm trong phiên 23/9, vẫn ghi nhận tuần tăng lớn nhất trong 2 tháng qua. USD ổn định so với các đồng tiền chủ chốt trong giỏ tiền tệ.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1,2% xuống 19,60 USD/ounce, nhưng cả tuần vẫn tăng 4,4%; giá bạch kim giảm 0,4% xuống 1.047,5 USD/ounce, cả tuần vẫn tăng 3,3%; trong khi đó, giá palladium lại tăng 1,3% lên 702,30 USD/ounce, cả tuần tăng 4,6%.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá nickel lên mức cao nhất 6 tuần do lo ngại về nguồn cung từ Philippines.
Từ tháng 7 tới nay, Philippines thông báo sẽ đóng cửa thêm nhiều mỏ khoáng sản. Nước này đã tạm dừng hoạt động 10 mỏ, trong đó 8 mỏ sản xuất nickel.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê đồng loạt giảm trên các thị trường trong phiên cuối tuần. Tại London, Robusta giảm 35-36 USD/tấn, trong khi đó tại New York, Arabica giảm 3,85-3,9 cent/lb.
Liên đoàn Cà phê Châu Âu cho biết, lượng cà phê lưu kho tại các cảng Antwerp, Bremen, Hamburg, Genoa, La Havre và Trieste trong tháng 6 tăng thêm 291.017 bao, hay 2,35%, lên 12.369.934 bao. Con số này không tính đến lượng cà phê quá cảnh và tồn trữ của các nhà rang xay, khoảng 2,5 triệu bao.
Với mức tiêu thụ của Đông và Tây Âu khoảng 1 triệu bao/tuần, lượng cà phê lưu kho đủ dùng trong khoảng 15 tuần.

Giá hàng hóa thế giới

 

Hàng hóa

ĐVT

Giá 17/9

Giá 24/9

Giá 24/9 so với 23/9

Giá 24/9 so với 23/9 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

43,03

+0,14

+0,32%

Dầu Brent

USD/thùng

45,77

46,80

+0,92

+2,01%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.440,00

28.540,00

-490,00

-1,69%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,95

3,04

0,00

-0,13%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

146,16

139,32

+2,86

+2,10%

Dầu đốt

US cent/gallon

140,51

142,59

+2,09

+1,49%

Dầu khí

USD/tấn

412,50

417,75

+4,50

+1,09%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

39.460,00

39.350,00

-200,00

-0,51%

Vàng New York

USD/ounce

1.310,20

1.341,70

-3,00

-0,22%

Vàng TOCOM

JPY/g

61,90

4.327,00

+14,00

+0,32%

Bạc New York

USD/ounce

18,84

19,78

-0,32

-1,61%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,90

64,00

+0,10

+0,16%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

1.020,38

1.054,00

-0,84

-0,08%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

673,50

702,00

+8,66

+1,25%

Đồng New York

US cent/lb

216,00

220,10

+0,65

+0,30%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

4.788,00

4.855,00

+2,00

+0,04%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.575,50

1.637,00

+4,00

+0,24%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.215,00

2.276,00

-18,00

-0,78%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.100,00

19.645,00

+160,00

+0,82%

Ngô

US cent/bushel

337,00

336,50

-0,25

-0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

403,25

404,75

-0,75

-0,18%

Lúa mạch

US cent/bushel

175,75

177,00

-0,25

-0,14%

Gạo thô

USD/cwt

9,82

9,65

-0,01

-0,10%

Đậu tương

US cent/bushel

966,00

955,00

-21,50

-2,20%

Khô đậu tương

USD/tấn

312,80

302,80

-4,70

-1,53%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,23

33,56

-0,65

-1,90%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

457,00

468,30

-2,70

-0,57%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.803,00

2.852,00

-68,00

-2,33%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

148,40

151,40

-3,85

-2,48%

Đường thô

US cent/lb

22,47

22,70

+0,03

+0,13%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

196,70

202,70

-1,35

-0,66%

Bông

US cent/lb

67,28

70,07

-1,64

-2,29%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

303,90

327,10

+1,70

+0,52%

Cao su TOCOM

JPY/kg

157,70

169,50

+0,50

+0,30%

Ethanol CME

USD/gallon

1,40

1,48

+0,00

+0,20%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg

 

 

Nguồn: Vinanet