Trên thị trường năng lượng, giá dầu phiên cuối tuần quay đầu giảm nhẹ, kết thúc ở 49,81 USD/thùng (dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 11/2016 trên sàn New York, giảm 63 cent, tương ứng 1,25% so với phiên trước đó), và 51,93 USD/thùng (dầu Brent giao tháng 11/2016 trên sàn London, giảm 58 cent, tương đương 1,1%). Tuy nhiên tính chung cả tuần, giá dầu WTI vẫn tăng 3%, còn Brent tăng 6%.
Giá dầu đã liên tục tăng sau khi OPEC trong tuần qua nhất trí cắt giảm sản lượng 220.000-700.000 thùng/ngày nhằm kéo giảm tình trạng thừa cung toàn cầu - khiến giá lao dốc trong 2 năm qua. Lượng dầu lưu kho của Mỹ bất ngờ giảm tuần thứ 5 liên tiếp cũng hỗ trợ giá dầu trong tuần này.
Báo cáo của Bộ Lao động Mỹ cho thấy, tháng 9 nước Mỹ tạo thêm được 156.000 việc làm mới, thấp hơn so với dự đoán 170.000 việc làm của các nhà kinh tế học. USD suy yếu sẽ giúp dầu thô rẻ hơn đối với giới đầu tư sử dụng đồng tiền khác, do vậy, giá dầu thường tăng khi USD đi xuống.
Các nước sản xuất OPEC trong phiên họp tại Algeria hồi tháng 9 đã nhất trí giảm sản lượng khoảng 700.000 thùng/ngày xuống 32,5-33 triệu thùng/ngày, lần đầu tiên kể từ năm 2008. OPEC ước tính sản lượng hiện nay đạt 33,24 triệu thùng/ngày.
Mới đây, Bộ trưởng Năng lượng Algeria Nouredine Bouterfa cho biết OPEC có thể giảm sản lượng thêm 1% so với dự kiến trong cuộc họp cuối tháng 11. “Chúng tôi sẽ đánh giá tình hình thị trường trong phiên họp tại Vienna vào cuối tháng 11 tới đây và nếu cắt giảm 700.000 thùng/ngày là chưa đủ, chúng tôi [OPEC] sẽ cắt giảm thêm. OPEC giờ đây luôn cùng tiếng nói và nếu cần cắt giảm sản lượng thêm 1%, chúng tôi sẽ giảm 1%". Algeria là một trong những nước thành viên ủng hộ chính sách giá dầu của OPEC và đây là lần đầu tiên cho thấy khả năng giảm tiếp sản lượng. Trước phiên họp tại Algeria, ông Bourerfa đã thúc giục OPEC cắt giảm sản lượng 1 triệu thùng/ngày để ổn định giá.
Khí thiên nhiên hoá lỏng (LNG) tăng lên mức cao nhất trong vòng 9 tháng do nhu cầu mạnh từ châu Á (Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc). LNG kỳ hạn giao tháng 11 tăng 10 US cent so với tuần trước, lên 6,20 USD/mmBtu trong bối cảnh cán cân cung-cầu có xu hướng thắt chặt.
Nhu cầu LNG từ Bắc Á tiếp tục vững bởi các nhà máy điện nguyên tử ở Nhật Bản và Hàn Quốc tạm dừng hoạt động như dự kiến trong khi nhu cầu nhiên liệu tăng trong mùa lạnh.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm phiên thứ 9 liên tiếp, xuống mức thấp nhất 4 tháng do việc bán ra mạnh. Phiên giao dịch cuối tuần, giá vàng giao ngay giảm 0,09% xuống 1.252,71 USD/ounce, tính chung cả tuần, giá giảm 4,8%, mức giảm lớn nhất kể từ tháng 6/2013; Giá vàng giao tháng 12/2016 giảm 0,1% xuống 1.251,9 USD/ounce.
Chỉ số đôla vừa qua tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 6 sau số liệu việc làm tích cực của lĩnh vực tư nhân công bố hôm thứ Hai 3/10 và báo cáo hoạt động sản xuất. Bảng Anh đột ngột lao dốc khiến giá vàng tính theo đồng tiền này lên cao nhất 3 tháng. Giá vàng tính theo bảng Anh tăng 1,3% lên 1.007,53 bảng/ounce, trước đó, giá tăng 6,5% lên 1.059,06 bảng/ounce, cao nhất kể từ giữa tháng 7.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,9% lên 17,43 USD/ounce, trong khi đó, giá bạch kim giảm 1,8% xuống 946,4 USD/ounce và giá palladium giảm 0,42% xuống 664,72 USD/ounce.
Về xu hướng tuần tới, cả giới đầu tư và nhà phân tích đều cho rằng giá vàng sẽ hồi phục sau khi giảm hơn 5% trong tuần kết thúc vào 7/10. Trong số 18 nhà phân tích và chuyên gia trong khảo sát Wall Street, 14 người (chiếm 78%) dự đoán giá vàng tuần tới tăng; 3 chuyên gia (17%) nhận định giá giảm và 1 nhà phân tích (6%) cho rằng giá đi ngang hoặc có ý kiến trung lập. Trong khi đó, trong số 463 nhà đầu the tham gia khảo sát Main Street, 264 người (57%) cho rằng giá vàng tuần tới tăng; 137 người (30%) tỏ ra bi quan; và 62 ngày (13%) dự đoán ra đi ngang hoặc có ý kiến trung lập.
Các nhà phân tích Phố Wall tỏ ra lạc quan bất chấp đà giảm gần đây của giá vàng. Một số cho rằng báo cáo việc làm phi nông nghiệp tháng 9 của Mỹ thấp hơn dự đoán là lý do để họ lạc qua, trong khi một số khác nhận định vàng đang bị bán quá mức dựa trên cơ sở kỹ thuật. Ken Morrison, biên tâp viên bản tin Morrison on the Markets, cho biết, có nhiều dấu hiệu cho thấy đà giảm của giá vàng chỉ mang tính nhất thời. USD mạnh lên sẽ là trở ngại đối với giá vàng nhưng chỉ số đôla hiện đang đạt mức đỉnh hồi tháng 7. Ông Morrison dự đoán giá vàng tuần tới sẽ hồi phục lên 1.280 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng tăng sau số liệu việc làm tích cực từ Mỹ. Đồng giao sau 3 tháng giá tăng 0,4% lên 4.775 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đường duy trì gần mức đỉnh cao của năm 2012 sau 4 phiên liên tiếp tăng mạnh do dự báo nguồn cung thắt chặt trên toàn cầu. Đường thô kỳ hạn tháng 3 tăng 0,31 US cent hay 1,3% lên 23,42 US cent/lb. Tính chung cả tuần giá tăng 4%. Đường trắng kỳ hạn giao tháng 12 tăng 8,20 USD hay 1,4% lên 598,70 USD/tấn.
Cà phê đồng loạt tăng giá trong phiên giao dịch cuối tuần. Tại London, Robusta tăng 12-17 USD/tấn trong khi tại New York, Arabica tăng 1,6-1,65 US cent/lb. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, arabica giảm giá 2,3% sau mấy phiên liên tiếp giảm giá.
Một số vùng trồng cà phê arabica chủ chốt tại Brazil có thể đón thêm tin tốt, nhất là lượng mưa cần thiết cho giai đoạn ra hoa của cây cà phê. Theo dự báo sẽ có mưa trên diện rộng ở phía tây và phía nam bang Minas Gerais và Mogiana thuộc Sao Paulo trong những ngày gần đây với lượng mưa dao động 15-75 mm.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá 1/10
|
Giá 8/10
|
Giá 8/10 so với 7/10
|
Giá 8/10 so với 7/10 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
48,24
|
49,81
|
-0,63
|
-1,25%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
49,06
|
51,93
|
-0,58
|
-1,10%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
30.270,00
|
32.210,00
|
-890,00
|
-2,69%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,90
|
3,17
|
+0,12
|
+4,03%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
146,31
|
147,77
|
-2,01
|
-1,34%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
153,83
|
157,93
|
-1,65
|
-1,03%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
447,75
|
468,50
|
-1,00
|
-0,21%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
40.300,00
|
42.710,00
|
-710,00
|
-1,64%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.317,10
|
1.251,90
|
-1,10
|
-0,09%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.278,00
|
4.145,00
|
-20,00
|
-0,48%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,25
|
17,58
|
+0,23
|
+1,33%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
62,40
|
57,10
|
-0,30
|
-0,52%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.027,35
|
968,00
|
+3,10
|
+0,32%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
720,65
|
669,40
|
+0,40
|
+0,06%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
221,05
|
216,35
|
+0,80
|
+0,37%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.865,00
|
4.778,00
|
+22,00
|
+0,46%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.673,00
|
1.675,00
|
-2,00
|
-0,12%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.377,00
|
2.324,00
|
+1,00
|
+0,04%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.025,00
|
20.000,00
|
-95,00
|
-0,47%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
336,75
|
339,75
|
-0,75
|
-0,22%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
402,00
|
394,75
|
-1,00
|
-0,25%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
178,25
|
190,75
|
+3,00
|
+1,60%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,89
|
10,10
|
-0,01
|
-0,15%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
954,00
|
956,75
|
-1,75
|
-0,18%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
299,60
|
300,20
|
-2,90
|
-0,96%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,44
|
33,31
|
+0,01
|
+0,03%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
463,60
|
469,80
|
+1,80
|
+0,38%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.761,00
|
2.785,00
|
-2,00
|
-0,07%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
151,55
|
148,00
|
+1,60
|
+1,09%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
23,00
|
23,42
|
+0,31
|
+1,34%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
205,00
|
198,10
|
-1,55
|
-0,78%
|
Bông
|
US cent/lb
|
68,08
|
66,98
|
-0,52
|
-0,77%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
336,40
|
343,10
|
+7,10
|
+2,11%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
163,20
|
173,70
|
0,00
|
0,00%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,49
|
1,52
|
+0,01
|
+0,93%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg