Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng nhẹ do Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất dầu liên minh đã cắt giảm sản lượng mặt hàng này trong tháng 6/2020 nhiều hơn thỏa thuận.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent kỳ hạn giao sau trên sàn London tăng 18 US cent lên 42,90 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) trên sàn New York tăng 19 US cent lên 40,29 USD/thùng.
Một nguồn tin từ OPEC và các nước sản xuất dầu liên minh do Nga dẫn đầu, còn gọi là OPEC+, cho hay liên minh này đã thực hiện cắt giảm sản lượng dầu ở mức 107% so với con số đã nhất trí trong tháng 6/2020.
Viện Dầu mỏ Mỹ cho hay lượng dầu thô tồn trữ của Mỹ trong tuần trước đã giảm mạnh hơn dự kiến. Thị trường dầu đang chờ đợi số liệu hàng tuần về lượng dầu dự trữ của Mỹ mà Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ sẽ công bố trong ngày 15/7. Theo kết quả điều tra sơ bộ của Reuters, giới phân tích ước tính tồn trữ xăng của Mỹ đã giảm 600.000 thùng, trong khi tồn trữ dầu thô giảm 2,1 triệu thùng trong tuần vừa qua.
Thị trường dầu đang chờ đợi thông tin từ OPEC+ về mức cắt giảm sản lượng dầu tiếp theo. Ủy ban Kỹ thuật Chung của OPEC đã nhóm họp trong ngày 14/7 và Ủy ban Giám sát cấp bộ trưởng của OPEC sẽ nhóm họp trong ngày 15/4 về vấn đề này. Theo thỏa thuận cung cấp dầu hiện tại, OPEC+ sẽ bắt đầu cắt giảm sản lượng dầu 9,7 triệu thùng/ngày kể từ tháng 8/2020 đến tháng 12/2020. Theo chuyên gia John Kilduff từ Again Capital Management ở New York, số liệu về mức cắt giảm sản lượng dầu thực tế của OPEC+ nói trên đã hỗ trợ giá “vàng đen”.
Các nhà phân tích của Citi cho biết, nguồn cung tăng dù không nhiều cũng có thể ảnh hưởng tới giá dầu, vì không chắc chắn về nhu cầu khi chưa khống chế được Covid-19. Morgan Stanley cũng cho rằng nhu cầu sẽ khó có thể về lại mức trước khi xảy ra đại dịch.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ do thị trường ngày càng lo ngại về việc số ca nhiễm Covid-19 mới tăng trên toàn cầu, buộc nhiều khu vực tái áp đặt các biện pháp hạn chế nhằm khống chế sự lây lan của dịch bệnh.
Khép phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.809,83 USD/ounce. Trong khi đó, giá vàng kỳ hạn tháng 8/2020 gần như không đổi ở mức 1.813,4 USD/ounce.Lượng vàng dự trữ do quỹ trao đổi vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust nắm giữ tăng 0,3% lên 1.203,97 tấn trong phiên 13/7.
Jeffrey Sica, nhà sáng lập Circle Squared Alternative Investments, nhận định thị trường đang xuất hiện dự báo về việc giới đầu tư quay lại với vàng trong vai trò là công cụ ngừa bất ổn khi các biện pháp đóng cửa đang được triển khai ở quy mô rộng hơn. Nhiều khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ không chỉ tiếp tục triển khai các chương trình kích thích kinh tế mà trong một số trường hợp sẽ còn tăng quy mô các chương trình này - yếu tố hỗ trợ đáng kể giá vàng.
Tính từ đầu năm đến nay, giá vàng đã tăng hơn 19%, chủ yếu nhờ yếu tố lãi suất thấp hơn và các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới triển khai các biện pháp kích thích kinh tế lớn.
Trong khi đó, đồng USD phiên vừa qua giảm giá khi mà đồng euro mạnh lên giữa lúc giới đầu tư lạc quan về khả năng Liên minh châu Âu (EU) triển khai thêm gói kích kinh tế.
Về những kim loại quý khác, giá palađi giảm 0,7% xuống 1.966,5 USD/ounce, bạch kim hạ 0,3% xuống 826,05 USD/ounce, trong khi giá bạc phiên này tăng 0,4% lên 19,16 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm khỏi mức cao nhất 2 năm do lo ngại về virus corona, các kim loại khác nhất loạt đi xuống.
Giá đồng đảo chiều giảm sau khi lập kỷ lục cao nhất trong vòng 2 năm ở phiên trước đó do lo ngại về tình trạng dịch Covid-19 gia tăng và căng thẳng giữa Mỹ với Trung Quốc – nước tiêu thụ đồng lớn nhất thế giới. Kết thúc phiên giao dịch vừa qua, trên sàn London (LME), đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng giảm 1% xuống 6.506 USD/tấn. Các kim loại cơ bản khác cũng đồng loạt giảm, theo đó nhôm mất 0,3% xuống 1.684,50 USD/tấn, kẽm giảm 3,1% xuống 2.191,5 USD/tấn, nickel giảm 0,9% xuống 13.590, chì trượt 1,7% xuống 1.849, chỉ riêng thiếc tăng 0,9% lên 17.285 USD/tấn. Mặc dù vậy, giá đồng hiện vẫn cao hơn khoảng 50% so với mức thấp nhất 45 tháng hồi tháng 3/2020, đạt mức cao nhất 2 năm vào ngày 13/7/2020, chủ yếu do lo ngại về nguồn cung của nước sản xuất đồng lớn nhất thế giới – Chile.
Giá quay đầu giảm trong phiên vừa qua, cùng xu hướng với thị trường chứng khoán và dầu mỏ, sau khi tiểu bang đông dân nhất ở Mỹ, California áp đặt các hạn chế mới để chống Covid-19, và Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố có thể xử phạt các quan chức và doanh nghiệp Trung Quốc liên quan đến vấn đề Biển Đông.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc tăng phiên thứ 2 liên tiếp do kỳ vọng nhu cầu sẽ mạnh lên khi kinh tế hồi phục sau mùa mưa lũ trong khi nguồn cung chưa có dấu hiệu cải thiện. Trên sàn Đại Liên, quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 có thời điểm tăng 3,2% lên 845 CNY (120,53 USD)/tấn; lúc đóng cửa tăng 2,4% lên 839 CNY/tấn. Trong phiên liền trước (13/7), quặng sắt 62% nhập khẩu vào Trung Quốc giá tăng 2,5% lên 109,5 CNY/tấn.
Số liệu của Hải quan Trung Quốc cho thấy nhập khẩu quặng sắt vào nước này trong tháng 6/2020 đạt mức cao nhất 33 tháng, là 101,68 triệu tấn.
Giá thép cây và thép cuộn cán nóng (kỳ hạn tháng 10) trên sàn Thượng Hải cũng tăng lần lượt 0,2% và 0,4% trong phiên vừa qua, từ các mức 3.739 CNY/tấn và 3.734 CNY/tấn của phiên liền trước. Thép không gỉ kỳ hạn thán 9 tăng 0,1% lên 13.590 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 giảm 0,7 US cent, tương đương 0,7%, xuống 97,95 US cent/lb; robusta giao cùng kỳ hạn giảm 9 USD (0,7%) xuống 1.215 USD/tấn.
Nhà phân tích kỹ thuật Axel Rudolph của Commerzbank cho biết, việc giá cà phê giảm xuống dưới ngưỡng kháng cự hồi đầu tháng cho thấy áp lực giảm giá sẽ còn tiếp điễn.
Giá đường giảm trong phiên vừa qua do không chắc chắn về việc mở cửa trở lại của các nhà máy trong bối cảnh dịch Covid-19 tiếp tục lan rộng.
Kết thúc phiên vừa qua, đường thô kỳ hạn tháng 10 giảm 0,26 US cent (2,2%) xuống 11,32 US cent/lb, trong phiên có thời điểm giá xuống mức thấp nhất 6 tuần – 11,27 US cent. Đường trắng kỳ hạn tháng 8 cùng phiên cũng giảm 20 US cent (0,1%) xuống 334,9 USD/tấn.
Thị trường năng lượng yếu đi có thể thúc đẩy các nhà máy ở khu vực đông nam Brazil tăng sản xuất đường thay vì sản xuất ethanol.
Giá cao su trên sàn Tokyo (TOCOM) giảm trong phiên giao dịch vừa qua do lo ngại căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng và những hạn chế mới liên quan đến việc số ca nhiễm virus corona tăng ở nhiều nơi trên thế giới có thể làm chậm tiến trình hồi phục kinh tế toàn cầu.
Kết thúc phiên giao dịch, hợp đồng kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn TOCOM giảm 0,5 JPY xuống 156,3 JPY (1,46 USD)/kg. Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 9 giảm 10 CNY xuống 10.600 CNY (1.511 USD)/tấn.
Mỹ ngày 14/7 đã bác bỏ những yêu sách về các nguồn tài nguyên ngoài khơi của Trung Quốc ở hầu hết các khu vực trên Biển Đông, dẫn tới Trung Quốc có những tuyên bố đáp trả, làm cho căng thẳng giữa 2 bên nóng lên.
Trong khi đó, các bang ở Australia ngày 14/7 siết chặt kiểm soát biên giới và hạn chế người dân lui tới các quán rượu, còn Disney chuẩn bị đóng cửa các công viên giải trí ở Hongkong và Nhật Bản nhằm hạn chế sự lây nhiễm virus corona.

Giá hàng hóa thế giới sáng 15/7/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,74

+0,45

+1,12%

Dầu Brent

USD/thùng

42,90

+0,18

+0,42%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.700,00

+460,00

+1,63%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,75

+0,01

+0,40%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

126,31

+1,57

+1,26%

Dầu đốt

US cent/gallon

122,30

+0,22

+0,18%

Dầu khí

USD/tấn

366,50

-2,00

-0,54%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.680,00

+280,00

+0,65%

Vàng New York

USD/ounce

1.811,90

-1,50

-0,08%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.235,00

+26,00

+0,42%

Bạc New York

USD/ounce

19,73

+0,20

+1,00%

Bạc TOCOM

JPY/g

66,70

+1,10

+1,68%

Bạch kim

USD/ounce

834,08

+4,77

+0,58%

Palađi

USD/ounce

1.975,89

+1,85

+0,09%

Đồng New York

US cent/lb

296,35

+3,10

+1,06%

Đồng LME

USD/tấn

6.571,00

+159,00

+2,48%

Nhôm LME

USD/tấn

1.690,00

+1,50

+0,09%

Kẽm LME

USD/tấn

2.261,50

+68,00

+3,10%

Thiếc LME

USD/tấn

17.435,00

+125,00

+0,72%

Ngô

US cent/bushel

326,00

-2,75

-0,84%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

526,75

+2,00

+0,38%

Lúa mạch

US cent/bushel

263,25

-2,25

-0,85%

Gạo thô

USD/cwt

12,01

+0,05

+0,38%

Đậu tương

US cent/bushel

877,50

+2,25

+0,26%

Khô đậu tương

USD/tấn

292,30

+0,60

+0,21%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,09

+0,39

+1,36%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

479,20

+1,80

+0,38%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.155,00

-38,00

-1,73%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

97,95

-0,70

-0,71%

Đường thô

US cent/lb

11,32

-0,26

-2,25%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

126,55

-3,00

-2,32%

Bông

US cent/lb

62,63

-0,72

-1,14%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

511,50

+17,80

+3,61%

Cao su TOCOM

JPY/kg

155,50

-0,80

-0,51%

Ethanol CME

USD/gallon

1,23

-0,10

-7,29%

 

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg