Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do các báo cáo cho thấy lượng tồn trữ dầu thô và xăng của Mỹ giảm và cơn bão Sally khiến hoạt động sản xuất dầu ở ngoài khơi của nước này phải tạm ngừng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent tại thị trường London tăng 1,69 USD (4,2%) lên 42,22 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tại thị trường New York tăng 1,88 USD (4,9%) lên 40,16 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, tồn trữ dầu thô của Mỹ đã giảm 4,4 triệu thùng trong tuần qua, xuống 496 triệu thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 4/2020. Con số này trái ngược hoàn toàn với dự đoán của các nhà phân tích qua cuộc thăm dò của Reuters – là tăng 1,3 triệu thùng. Tồn trữ xăng cũng giảm 400.000 thùng.
Theo chuyên gia Jim Ritterbusch thuộc trung tâm Ritterbusch and Associates, giá dầu thế giới tăng sau khi EIA công bố các số liệu trên. Ngoài ra, chuyên gia này cho hay bão Sally đổ bộ vào vùng duyên hải Vịnh Mexico của Mỹ cũng làm giá dầu tăng do hơn 25% hoạt động khai thác dầu khí ngoài khơi của Mỹ bị tạm ngừng.
Trước đó, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã hạ triển vọng nhu cầu dầu mỏ năm 2020 do thận trọng về tốc độ phục hồi kinh tế. Theo kế hoạch, Bộ trưởng Dầu mỏ các quốc gia thành viên OPEC và các nước sản xuất dầu liên minh (còn gọi là OPEC +) sẽ họp thảo luận về nguồn cung dầu trong ngày 17/9 (giờ địa phương) và khó có khả năng đề xuất cắt giảm sản lượng dầu hơn nữa mặc dù giá "vàng đen" đã giảm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trước khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) thông báo sẽ duy trì chính sách tiền tệ ôn hòa để hỗ trợ nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng COVID-19.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.960,60 USD/ounce, trước đó có thời điểm đạt mức cao nhất kể từ ngày 2/9 là 1.973,16 USD/ounce; vàng kỳ hạn giao sau tăng 0,2% lên 1.970,50 USD/ounce.
Ông David Meger, Giám đốc mảng giao dịch kim loại thuộc công ty môi giới High Ridge Futures cho biết thị trường kỳ vọng Fed sẽ duy trì lãi suất thấp trong một thời gian rất dài và lạm phát sẽ vượt quá mức mục tiêu 2% của họ. Giá vàng luôn nhạy cảm với các động thái điều chỉnh lãi suất của Fed, bởi lãi suất giảm sẽ ảnh hưởng tới lợi suất trái phiếu và đồng USD trong khi củng cố sức hấp dẫn của vàng.
Hoạt động chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ đã chậm lại trong tháng Tám, cho thấy đà phục hồi kinh tế đang bị đình trệ do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Ông Meger cho biết số liệu kinh tế yếu hơn hỗ trợ ý tưởng rằng Fed sẽ duy trì chính sách ôn hòa và Quốc hội Mỹ sẽ đưa ra một gói biện pháp kích thích khác. Đây đều là những trụ cột chính hỗ trợ cho giá vàng đi lên.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm 0,2% xuống 27,19 USD/ounce, bạch kim giảm 1,5% xuống 963,59 USD/ounce, palađi giảm 1% xuống 2.385,91 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kẽm tăng lên mức cao nhất 16 tháng do triển vọng nhu cầu mạnh từ Trung Quốc và đồng CNY tăng giá, làm cho kim loại nói chung trở nên hấp dẫn đối với khách hàng Trung Quốc. Kết thúc phiên trên sàn London, kẽm giao sau 3 tháng tăng 1,2% lên 1.526 USD/tấn, là phiên tăng giá thứ 4 liên tiếp. Giá kim loại này ngày 1/9 đã đạt 2.583 USD/tấn.
Kẽm – kim loại sử dụng trong ngành mạ thép – tăng 24% từ mức thấp nhất hồi tháng 3 do sản xuất thép của Trung Quốc tăng.
Trong số các kim loại công nghiệp khác, giá đồng tăng 0,2% lên 6.776,50 USD/tấn, nhôm tăng 0,1% lên 1.791 USD/tấn, nickel tăng 0,2% lên 15.230 USD/tấn, chì giảm 0,7% xuống 1.895 USD/tấn và thiếc tăng 0,2% lên 18.250 USD/tấn.
Giá sắt thép trên thị trường Trung Quốc đồng loạt giảm trong phiên vừa qua. Quặng sắt giảm hơn 5% do thị trường bớt lo ngại về tình trạng khan hiếm nguồn cung trên toàn cầu, trng khi biên độ lợi nhuận ngành thép giảm dẫn tới giảm nhu cầu quặng sắt.
Lúc đóng cửa phiên giao dịch, quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Đại Liên giảm 5,1% xuống 796,5 CNY/tấn, mức thấp nhất kể từ 3/8 và là mức giảm trong 1 ngày nhiều nhất trong vòng gần 6 tháng. Trên sàn Singapore, giá quặng sắt giảm 3,8% xuống 119,15 USD/tấn. Giá thép tại Trung Quốc giảm trong phiên vừa qua. Cụ thể, trên sàn Thượng Hải, thép cây kỳ hạn tháng 1/2021 giảm 65 CNY (khoảng 9,58 USD) xuống 3.575 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giao cùng kỳ hạn giảm 78 CNY xuống 3.689 CNY/tấn.
Mấy tuần gần đây, thị trường quặng sắt nóng lên, giá lập mức cao nhất trong vòng hơn 6 năm do nguồn cung hạn hẹp và xuất hiện những dấu hiệu cho thấy nhu cầu thép hồi phục. Tuy nhiên, việc nhập khẩu mạnh từ Australia và Brazil đã khiến lượng quặng lưu trữ tại các cảng biển Trung Quốc tuần qua tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 4/2020, theo số liệu của SteelHome.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương đã tăng lên mức cao kỷ lục 2 năm do Trung Quốc tiếp tục mua mạnh đậu tương Mỹ. Giá ngô và lúa mì tăng, một phần do giá dầu tăng. Ngô và đậu tương thường theo xu hướng giá năng lượng vì 2 ngũ cốc này còn được dùng làm nguyên liệu sản xuất ethanol.
Trên sàn Chicago, đậu tương kỳ hạn tháng 11 tăng 19-3/4 US cent lên 10,11-1/4 nUSD/bushel vào lúc đóng cửa, sau khi có thời điểm đạt 10,13-3/4 USD, cao nhất kể từ tháng 6/2018; ngô kỳ hạn tháng 12 tăng 5-3/4 US cent lên 3,71-3/4 USD/bushel, sau khi có thời điểm đạt 3,72 USD, cao nhất 6 tháng; lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 3-3/4 US cent lên 5,42 USD/bushel.
Giá đường thô tiếp tục tăng sau khi vượt ngưỡng 12 US ccent do USD giảm tiếp và giá dầu tăng tiếp. Kết thúc phiên, đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,27 US cent (2,2%) lên 12,35 US cent/lb, trong phiên có lúc đạt 12,43 US cent, cao nhất kể từ 13/9; đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 4,7 USD (1,3%) lên 358 USD/tấn.
Đồng USD giảm giá trị làm cho những mặt hàng tính bằng USD trở nên rẻ hơn đối với những khách hàng mua bằng các loại tiền tệ khác. Trong khi đó, dầu tăng giá khiến các nhà máy đường Brazil tăng sản xuất ethanol và giảm sản xuất đường.
Ngân hàng Citi dự báo “Giá đường thô sẽ duy trì ở mức vừa phải trong 6 tháng cuối năm 2020, khoảng 12,25 US cent/lb. Sang năm 2021, giá sẽ ở mức 14 US cent vì giá dầu tiếp tục tăng”.
Giá cà phê arabica giảm tiếp sau khi đã chạm mức thấp nhất 1 tháng. Kết thúc phiên, arabica kỳ hạn tháng 12 giảm 1,95 US cent (1,6%) xuống 1,1985 USD/lb, đã mất tổng cộng gần 10% giá trị chỉ sau 2 phiên vừa qua do dự báo sẽ có mưa đủ ở Brazil.
Trái với arabica, robusta tiếp tục tăng, với hợp đồng kỳ hạn tháng 11 tăng 1 USD lên 1.392 USD/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản đã tăng phiên thứ 3 liên tiếp, theo xu hướng tăng ở sàn Thượng Hải, sau khi sản lượng công nghiệp và bán lẻ của Trung Quốc đều tăng nhanh.
Trên sàn Osaka, cao su kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 1,4 JPY (0,8%) lên 184,6 JPY/kg, cao nhất kể từ 3/9. Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 0,8% lên 12.475 CNY/tấn. Giá
Giá hàng hóa thế giới sáng 17/9

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,23

+0,07

+0,17%

Dầu Brent

USD/thùng

42,22

+1,69

+4,17%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.740,00

+560,00

+1,99%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,25

-0,01

-0,62%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

119,55

+0,66

+0,56%

Dầu đốt

US cent/gallon

111,77

+0,14

+0,13%

Dầu khí

USD/tấn

325,25

+5,25

+1,64%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

41.790,00

-50,00

-0,12%

Vàng New York

USD/ounce

1.967,30

-3,20

-0,16%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.631,00

-15,00

-0,23%

Bạc New York

USD/ounce

27,34

-0,14

-0,50%

Bạc TOCOM

JPY/g

91,80

-0,70

-0,76%

Bạch kim

USD/ounce

970,58

-3,13

-0,32%

Palađi

USD/ounce

2.398,54

-0,29

-0,01%

Đồng New York

US cent/lb

306,65

+0,55

+0,18%

Đồng LME

USD/tấn

6.777,00

+15,50

+0,23%

Nhôm LME

USD/tấn

1.795,50

+6,00

+0,34%

Kẽm LME

USD/tấn

2.528,00

+31,50

+1,26%

Thiếc LME

USD/tấn

18.275,00

+66,00

+0,36%

Ngô

US cent/bushel

371,75

+5,75

+1,57%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

542,00

+3,75

+0,70%

Lúa mạch

US cent/bushel

273,00

+3,75

+1,39%

Gạo thô

USD/cwt

12,16

+0,01

+0,08%

Đậu tương

US cent/bushel

1.011,25

+19,75

+1,99%

Khô đậu tương

USD/tấn

325,70

+6,50

+2,04%

Dầu đậu tương

US cent/lb

34,91

+0,76

+2,23%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

530,20

+9,30

+1,79%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.602,00

-92,00

-3,41%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

119,85

-1,95

-1,60%

Đường thô

US cent/lb

12,92

+0,21

+1,65%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

116,40

+0,75

+0,65%

Bông

US cent/lb

66,37

-0,07

-0,11%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

612,00

-28,40

-4,43%

Cao su TOCOM

JPY/kg

139,90

+2,00

+1,45%

Ethanol CME

USD/gallon

1,30

-0,01

-0,84%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg