Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau thông tin các thành viên Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) gần hoàn thành cam kết cắt giảm sản lượng dầu trong tháng 7/2020.
Kết thúc phiên, dầu Brent tại thị trường London (Anh) tăng 57 US cent (tương đương 1,3%) lên 45,87 USD/thùng, trong khi giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tại New York (Mỹ) tăng 88 US cent (2,1%) lên 42,41 USD/thùng.
Theo một số nguồn tin từ liên minh giữa OPEC và các nước sản xuất dầu ngoài khối, còn gọi là OPEC+, mức độ thực hiện thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu trong tháng 7/2020 của các thành viên OPEC+ là khoảng 97%.
Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 17/8 cho biết Trung Quốc đang cố gắng thực hiện những cam kết theo thỏa thuận thương mại “Giai đoạn một” mà Washington và Bắc Kinh đã ký kết hồi tháng 1/2020, cho dù vẫn chưa đáp ứng việc nhập khẩu hàng hóa Mỹ ở mức đã cam kết. Các công ty dầu mỏ quốc doanh của Trung Quốc đã ký hợp đồng thuê các tàu chở dầu để vận chuyển ít nhất 20 triệu thùng dầu thô của Mỹ trong hai tháng 8-9/2020.
Chuyên gia John Kilduff của Again Capital - có trụ sở tại New York (Mỹ), nhận định, hiện có những dấu hiệu cho thấy nhu cầu dầu đang gia tăng ở Trung Quốc và điều này đã thu hút sự quan tâm của giới đầu tư cũng như tác động tới thị trường “vàng đen” thế giới.
Hiện tại, các nhà đầu tư đang chờ đợi cuộc họp của Ủy ban cấp bộ trưởng của OPEC+ để đánh giá việc thực hiện thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu đã nhất trí trước đó, trong khi dự kiến sẽ không có sự điều chỉnh nào đối với thỏa thuận này.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm, cùng với việc công ty Berkshire Hathaway của Warren Buffett mua cổ phần của công ty khai thác vàng lớn đã củng cố tinh thần cho nhà đầu tư.
Giá vàng giao ngay tăng 1,9% lên 1.981,41 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 2,5% lên 1.998,7 USD/ounce. Giá vàng trong tuần trước đã ghi nhận sụt giảm lớn nhất kể từ tháng 3 khi các nhà đầu tư đánh giá lại vị thế của vàng sau khi vàng giảm mạnh từ mức kỷ lục 2.072,50 USD.
Các nhà đầu tư hiện đang chờ đợi cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiễn diễn ra vào ngày 19/8.
Bob Haberkorn, chuyên gia thị trường cao cấp thuộc trung tâm RJO Futures, cho biết thị trường vàng phụ thuộc rất nhiều vào các quyết định của Fed. Giá kim loại quý này có khả năng tăng lên mức trên 2.000 USD/ounce trước khi diễn ra cuộc họp của Fed và có thể lên đến 2.250 USD/ounce vào cuối năm nay.
Công ty Berkshire Hathaway đã đầu tư 20,9 triệu cổ phiếu mới vào một trong những công ty khai thác lớn nhất thế giới, Barrick Gold. Cũng hỗ trợ vàng là USD giảm xuống mức thấp nhất hơn một tuần.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng và hầu hết các kim loại công nghiệp khác cũng tăng sau khi ngân hàng trung ương Trung Quốc bơm thêm tiền vào hệ thống tài chính. Đáng chú ý, giá nickel tăng mạnh lên mức cao nhất trong gần 9 tháng do lo ngại về nguồn cung từ Philippines, nhà xuất khẩu nicken hàng đầu thế giới này.
Nickel giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 1,7% lên 14.610 USD/tấn sau khi chạm 14.700 USD, cao nhất kể từ ngày 25/11. Giá đồng trên sàn LME tăng 1,3% lên 6.449,5 USD/tấn. Dự trữ đồng LME giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 12 năm tại 110.000 tấn.
Sản lượng quặng nickel của Philippines, nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về nguyên liệu này đã giảm 28% so với năm trước xuống 102.310 tấn trong 6 tháng đầu năm nay.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng trong phiên vừa qua, với hợp đồng quặng sắt trên sàn Đại Liên tiếp tục tăng phiên thứ 3 liên tiếp do lạc quan về triển vọng nhu cầu tại nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới, Trung Quốc, mặc dù nguồn cung đang tăng đã làm giảm lạc quan của nhà đầu tư.
Tuy nhiên, thép không gỉ của Trung Quốc là tâm điểm chú ý, tăng hơn 5% do giá nicken, thành phần chính để sản xuất, trên sàn giao dịch kim loại London trở lại mức cao nhất trong hơn 8 tháng đã đạt được trong tuần trước.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 0,4% lên 834,5 CNY (120,3 USD)/tấn. Hợp đồng giao tháng 9 tại Singapore tăng 0,8% lên 116,82 USD/tấn. Giá thép không gỉ tại Thượng Hải tăng 5,1% lên 14,905 CNY/tấn; thép thanh Thượng Hải tăng 1,2%, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,7%.
Quặng sắt Đại Liên theo hướng tăng tháng thứ 6 liên tiếp trong khi giá quặng sắt giao ngay tại Trung Quốc ở mức cao 13 tháng, được củng cố bởi chương trình kích thích kinh tế bị ảnh hưởng bởi Covid-19 của Bắc Kinh.
Nhưng nguồn cung đang tăng đã hạn chế đà tăng giá của quặng sắt, xuất khẩu từ cảng Hedland của Australia đạt 43,6 triệu tấn trong tháng 7, mức cao nhất một tháng đã từng. Xuất khẩu quặng sắt hàng ngày của Brazil tăng lên 1,64 triệu tấn trong 5 ngày đầu tháng 8, tăng từ 1,48 triệu tấn trong 23 ngày làm việc của tháng 7.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Chicago tăng trong phiên đêm qua lên mức cao nhất trong gần 7 tháng do các báo cáo thời tiết khô hạn ở Mỹ, trong khi ngô đạt mức cao nhất trong một tháng do lo ngại về thiệt hại từ một cơn bão tại Iowa một tuần trước.
Tháng 8 là một tháng khô hạn nhất được ghi nhận trên toàn vùng Midwest trong giai đoạn phát triển quan trọng của đậu tương. Tình trạng khô hạn có thể hạn chế nguồn cung đậu tương của Mỹ.
Hợp đồng đậu tương được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch Chicago (CBOT) tăng 16-1/2 US cent lên 9,15-1/4 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 22/1. Giá ngô CBOT tăng 6-3/4 US cent lên 3,44-3/4 USD/bushel sau khi chạm 3,45 USD, cao nhất kể từ ngày 10/7, trong khi lúa mì tăng 16-3/4 US cent lên 5,26-14 USD/bushel.
Về mặt hàng cà phê, giá arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa tăng 1 US cent hay 0,9% lên 1,1745 USD/lb; robusta kỳ hạn tháng 11 đóng cửa giảm 6 USD hay 0,4% xuống 1.378 USD/tấn.
Các nhà môi giới Brazil cho biết các nhà sản xuất về cơ bản đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro cho mùa vụ hiện tại, vì thế nếu các quỹ tiếp tục tăng cường mua vào cà phê arabica sẽ không gặp nhiều trở ngại.
Dự báo có mưa ở các khu vực cà phê ở Brazil trong những ngày tới sau khi khô hạn kéo dài, điều này có thể cải thiện tình trạng mùa màng trong năm tới.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng trong đầu phiên nhưng đóng cửa giảm 0,04 US cent, hay 0,3% xuống 13,06 US cent/lb, giá đã chạm mức cao nhất 5 tháng tại 13,28 US cent trong ngày 14/8; đường trắng kỳ hạn tháng 10 giảm 1,5 USD hay 0,4% xuống 379,7 USD/tấn.
Thị trường được hỗ trợ bởi dự kiến sản lượng sụt giảm ở Thái Lan, Nga và Liên minh Châu Âu, cũng như nhu cầu mạnh hơn dự kiến ở Trung Quốc.
Giá cao su Nhật Bản tăng theo xu thế Thượng Hải do lạc quan về vaccine Covid-19. Hợp đồng cao su giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 1 JPY hay 0,5% lên 176,5 JPY/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 1/2021 tại sàn giao dịch Thượng Hải tăng 0,7% lên 12.475 CNY/tấn.
Công ty vaccine Trung Quốc CanSino Biologics đã giành được sự chấp thuận bằng sáng chế của Bắc Kinh cho ứng cử viên vaccine Covid-19 Ad5-nCOV. Đây là bằng sáng chế vaccine Covid-19 đầu tiên được Trung Quốc cấp. Các thương nhân không để ý tới dự đoán tăng trưởng kinh tế tại Nhật Bản sụt giảm, khi chính phủ cho biết nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới này bị ảnh hưởng bởi sự sụt giảm kinh tế lớn nhất lịch sử trong quý 2.
Giá hàng hóa thế giới sáng 18/8/2020 

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

42,30

+0,06

+0,14%

Dầu Brent

USD/thùng

45,02

+0,06

+0,13%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.620,00

-40,00

-0,13%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,18

0,00

0,00%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

124,71

+1,23

+1,00%

Dầu đốt

US cent/gallon

124,67

+0,86

+0,69%

Dầu khí

USD/tấn

377,75

+1,25

+0,33%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

45.110,00

+20,00

+0,04%

Vàng New York

USD/ounce

1.961,50

-8,90

-0,45%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.730,00

+110,00

+1,66%

Bạc New York

USD/ounce

27,50

-0,22

-0,80%

Bạc TOCOM

JPY/g

94,60

+5,80

+6,53%

Bạch kim

USD/ounce

960,11

-0,08

-0,01%

Palađi

USD/ounce

2.161,22

-17,86

-0,82%

Đồng New York

US cent/lb

283,90

+0,70

+0,25%

Đồng LME

USD/tấn

6.256,00

-176,50

-2,74%

Nhôm LME

USD/tấn

1.763,50

-23,50

-1,32%

Kẽm LME

USD/tấn

2.375,00

-26,00

-1,08%

Thiếc LME

USD/tấn

17.500,00

-80,00

-0,46%

Ngô

US cent/bushel

337,50

-1,25

-0,37%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

504,25

-2,25

-0,44%

Lúa mạch

US cent/bushel

257,50

-0,50

-0,19%

Gạo thô

USD/cwt

11,73

-0,02

-0,21%

Đậu tương

US cent/bushel

897,50

-2,00

-0,22%

Khô đậu tương

USD/tấn

298,20

-0,50

-0,17%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,11

-0,08

-0,26%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

484,80

-0,90

-0,19%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.480,00

+15,00

+0,61%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

118,10

+3,85

+3,37%

Đường thô

US cent/lb

13,11

+0,27

+2,10%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

120,00

+4,55

+3,94%

Bông

US cent/lb

62,99

0,00

0,00%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

725,00

+19,00

+2,69%

Cao su TOCOM

JPY/kg

174,90

+1,60

+0,92%

Ethanol CME

USD/gallon

1,23

0,00

0,00%

 

Nguồn: VITIC / Reuters, Bloomberg