Tại một trong những hội nghị thượng đỉnh kéo dài nhất từ trước tới nay, ngày 20/7, cuối cùng các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu (EU) cũng đã vượt qua những khác biệt để cùng đồng thuận về đề xuất ngân sách lớn chưa từng thấy lên tới hơn 1.000 tỷ euro (gần 1.200 tỷ USD) cho 7 năm tới và quỹ phục hồi kinh tế trong giai đoạn hậu đại dịch COVID-19, trị giá 750 tỷ euro (860 tỷ USD). Thoả thuận này cho phép Uỷ ban châu Âu (EC) huy động hàng tỷ euro trên thị trường vốn thay mặt cho tất cả 27 nước thành viên, một hành động đoàn kết chưa từng có trong gần 70 năm qua của khối này.
Trên thị trường năng lượng, dầu mỏ tăng giá sau thông tin về gói kích thích kinh tế của EU. Kỳ vọng về hiệu quả của những vắc - xin phòng Covid-19 càng góp phần đẩy giá dầu tăng.
Kết thúc phiên, dầu Brent Biển Bắc tăng 1,04 USD (2,4%) lên 44,32 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ WTI tăng 1,15 USD (2,8%) lên 41,96 USD/thùng. 
Ngoài thông tin tích cực về gói kích thích kinh tế của EU, thông tin về việc một số công ty công nghệ sinh học và sản xuất dược phẩm trên thế giới công bố những bước tiến khả quan trong cuộc chạy đua điều chế vắc-xin phòng Covid-19 hôm 20/7 cũng hỗ trợ cho thị trường năng lượng.
Mặt khác, giá dầu cũng được đà đi lên bởi những kỳ vọng rằng các nghị sĩ Mỹ có thể sớm nhất trí về gói kích thích mới, trong bối cảnh gói viện trợ thất nghiệp mở rộng cho hàng triệu người dân Mỹ sẽ hết hạn vào cuối tháng này.
Tuy vậy, đà tăng của giá dầu cũng đã bị hạn chế phần nào sau khi Viện Xăng dầu Mỹ (API) báo cáo dự trữ dầu thô nước này đã tăng khoảng 7,5 triệu thùng trong tuần trước, so với dự đoán giảm 2,1 triệu thùng.
Nhiều nước trong đó có Mỹ và Ấn Độ vẫn đang ghi nhận số ca mắc Covid-19 tăng kỷ lục, còn các nước khác như Tây Ban Nha và Australia đang phải đương đầu với đợt bùng phát dịch mới.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất trong vòng 9 năm sau khi giới đầu tư bán tháo đồng USD, đồng thời bày tỏ tin tưởng vào việc các chính phủ tăng quy mô hỗ trợ phục hồi của các nền kinh tế.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 1,5% lên 1.842,52 USD/ounce - mức cao nhất kể từ tháng 9/2011 và là mức tăng theo ngày lớn nhất kể từ đầu tháng 5/2020; vàng giao tháng 8/2020 cũng tăng 1,5% lên 1.843,9 USD/ounce.
Đồng USD, được coi là tài sản đối trọng với vàng, đã giảm xuống mức thấp trong bốn tháng khi tình hình thế giới khả quan hơn chút ít. Lãi suất giảm và một lần nữa điều này hỗ trợ giá vàng. Chính phủ Mỹ dự kiến thảo luận về một gói kích thích kinh tế mới trong tuần này.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 6,4% lên 21,18 USD/ounce sau khi có thời điểm đạt mức cao nhất kể từ tháng 7/2014 là 21,2 USD/ounce; palađi tăng 5% lên 2.156,71 USD/ounce sau khi tăng lên mức cao nhất kể từ phiên 21/4, trong khi giá bạch kim tăng 5,2% lên 886,97 USD/ounce sau đà tăng lên mức cao nhất kể từ phiên 10/3.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do các nhà đầu tư kỳ vọng nhu cầu kim loại và nền kinh tế toàn cầu hồi phục, sau khi các nhà lãnh đạo EU đồng ý kế hoạch kích thích lớn và những thông tin tích cực về thử nghiệm vắc xin virus corona.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,8% lên 6.541 USD/tấn, gần mức cao nhất 25 tháng (6.633 USD/tấn) trong ngày 13/7/2020.
Nhà phân tích Tim Wood-Dow thuộc BMO Capital Markets cho biết, các thử nghiệm vắc xin và gói kích thích của EU sẽ thúc đẩy nhu cầu và giá, song mức tăng bị hạn chế bởi sự suy giảm theo mùa vụ hiện tại của Trung Quốc.
Trong nhóm sắt thép, giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng, do tâm lý lạc quan trên thị trường chứng khoán và kim loại cơ bản Trung Quốc, bất chấp sản lượng trong quý 2/2020 của công ty khai thác quặng sắt Vale Brazil tăng.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng 2,8% lên 841 CNY (120,32 USD)/tấn, sau khi giảm 3 phiên liên tiếp. Giá quặng sắt trên sàn Singapore tăng 2,4% lên 108,6 USD/tấn, hồi phục từ mức giảm 4 phiên liên tiếp. Giá thép cây trên sàn Thượng Hải tăng 1,2%, thép cuộn cán nóng tăng 1,1% và thép không gỉ tăng 1%. Sản lượng quặng sắt của Vale Brazil trong quý 2/2020 tăng 5,5% so với quý 2/2019 và tăng 13,4% so với quý 1/2020, bất chấp tác động của virus corona.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn New York kết thúc phiên giao dịch giảm 0,05 US cent (0,4%) xuống 11,67 US cent/lb, sau khi tăng 1,5% trong đầu phiên giao dịch; đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 4,8 USD tương đương 1,4% lên 355,3 USD/tấn.
Giá cà phê tăng trong phiên vừa qua bởi thị trường hàng hóa và chứng khoán tăng cũng như những thông tin tích cực về thử nghiệm vắc xin virus corona và thỏa thuận kích thích của EU.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn New York tăng 2 US cent tương đương 2% lên 1,0175 USD/lb; robusta giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 39 USD tương đương 3,1% lên 1.317 USD/tấn.
Giá đậu tương trên sàn Chicago giảm, mặc dù các nhà xuất khẩu Mỹ mới xuất khẩu thêm đậu tương sang thị trường Trung Quốc và Bộ Nông nghiệp Mỹ cho biết, điều kiện cây trồng trong tuần tốt hơn so với kỳ vọng thị trường.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 8/2020 giảm 6-1/2 USD/bushel xuống 8,96-1/2 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 9/2020 giảm 5-1/2 US cent xuống 3,22-3/4 USD/bushel, trong khi lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 5-3/4 US cent lên 5,27-3/4 USD/bushel.
Giá hàng hóa thế giới sáng 22/7/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

41,64

-0,28

-0,67%

Dầu Brent

USD/thùng

44,07

-0,25

-0,56%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

29.410,00

+300,00

+1,03%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,66

-0,01

-0,78%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

128,09

+0,12

+0,09%

Dầu đốt

US cent/gallon

127,44

-0,56

-0,44%

Dầu khí

USD/tấn

383,75

-3,00

-0,78%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

44.490,00

+240,00

+0,54%

Vàng New York

USD/ounce

1.858,60

+14,70

+0,80%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.381,00

+107,00

+1,71%

Bạc New York

USD/ounce

22,89

+1,33

+6,18%

Bạc TOCOM

JPY/g

77,50

+7,30

+10,40%

Bạch kim

USD/ounce

891,41

+8,11

+0,92%

Palađi

USD/ounce

2.169,37

+24,58

+1,15%

Đồng New York

US cent/lb

297,30

+1,50

+0,51%

Đồng LME

USD/tấn

6.534,50

+47,00

+0,72%

Nhôm LME

USD/tấn

1.696,50

+32,00

+1,92%

Kẽm LME

USD/tấn

2.245,00

+44,50

+2,02%

Thiếc LME

USD/tấn

17.565,00

+205,00

+1,18%

Ngô

US cent/bushel

331,75

+1,00

+0,30%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

529,25

+1,50

+0,28%

Lúa mạch

US cent/bushel

271,00

+1,50

+0,56%

Gạo thô

USD/cwt

11,81

-0,01

-0,08%

Đậu tương

US cent/bushel

896,00

+3,00

+0,34%

Khô đậu tương

USD/tấn

293,70

+0,40

+0,14%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,93

+0,25

+0,81%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

484,20

-0,50

-0,10%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.176,00

-43,00

-1,94%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

101,75

+2,00

+2,01%

Đường thô

US cent/lb

11,67

-0,05

-0,43%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

122,85

-0,25

-0,20%

Bông

US cent/lb

62,91

-0,04

-0,06%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

513,20

-19,00

-3,57%

Cao su TOCOM

JPY/kg

158,90

-0,10

-0,06%

Ethanol CME

USD/gallon

1,11

0,00

0,00%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg