Mỹ yêu cầu Trung Quốc đóng cửa Tổng lãnh sự quán tại thành phố Houston. Ngay sau đó, Trung Quốc đáp trả bằng việc xem xét đóng cửa lãnh sự quán Mỹ tại Vũ Hán. Giới quan sát cho rằng căng thẳng giữa 2 bên gia tăng sẽ làm triển vọng kinh tế toàn cầu càng thêm xấu đi khi thế giới vẫn đang chật vật vì tác động của đại dịch Covid-19.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do căng thẳng Mỹ - Trung leo thang. Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 3 US cent xuống 44,29 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2 US cent xuống 41,9 USD/thùng.
Căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc vốn được xem là yếu tố tiêu cực đối với giá dầu do Trung Quốc là một trong nước nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới và Mỹ là một trong nhà sản xuất kinh doanh dầu mỏ lớn của thế giới.
Ngày 22/7, Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết tồn dự trữ dầu thô nội địa tăng 4,9 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 17.7, thấp hơn dự báo vọt 7,5 triệu thùng của Viện xăng dầu Mỹ (API), nhưng trái ngược hoàn toàn với dự báo giảm 1,9 triệu thùng từ các nhà phân tích tham gia cuộc thăm dò của Platts. EIA còn cho biết nguồn cung xăng giảm 1,8 triệu thùng trong tuần trước, thấp hơn so với dự báo sụt 2 triệu thùng. Trong khi đó, tồn trữ các sản phẩm chưng cất tăng 1,1 triệu thùng, cao hơn dự báo tăng 280.000 thùng cũng từ cuộc thăm dò của Platts.
Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 21/7 thừa nhận dịch Covid-19 có thể sẽ còn diễn biến xấu đi hơn nữa. Ông Bjornar Tonhaugen thuộc Công ty nghiên cứu Rystad Energy, cho biết những tuyên bố mới nhất của ông Trump về dịch Covid-19 có thể được các nhà đầu tư hoan nghênh vì cho thấy Nhà Trắng đang tỏ ra thận trọng trước những diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 tại Mỹ. Tổng thống Mỹ Donald Trump ngày 21/7 thừa nhận dịch Covid-19 có thể sẽ còn diễn biến xấu đi hơn nữa. Ông nói: “Đây có thể là một dấu hiệu tích cực thay vì một làn sóng lây nhiễm thứ hai không được kiểm soát, có thể chính quyền Tổng thống Trump sẽ hành động mạnh hơn để ngăn chặn dịch bệnh”.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng lên mức cao nhất trong vòng 9 năm do căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc thúc đẩy nhu cầu về kim loại “trú ẩn an toàn”.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay đã tăng 1,3% lên 1.865,61 USD/ounce, trong khi giá vàng kỳ hạn tháng 8/2020 chốt phiên tăng 1,2% lên 1.865,1 USD/ounce. Đầu phiên, có thời điểm giá đã chạm mức cao nhất kể từ tháng 9/2011 là 1.870,01 USD/ounce – tiến gần sát mức đỉnh của mọi thời đại mà kim loại quý này đã đạt được vào cùng tháng đó.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cao cấp tại công ty môi giới đầu tư OANDA, cho hay giá vàng đang tăng tốc nhanh hơn, chủ yếu là do căng thẳng địa chính trị giữa Mỹ với Trung Quốc. Dường như trong thời gian tới, sự leo thang căng thẳng này sẽ chưa có hồi kết và nó sẽ gây tổn hại đến tâm lý nhà đầu tư khi các nền kinh tế lớn nhất thế giới tiếp tục tranh cãi với nhau.
Lãi suất thấp và làn sóng kích thích để giảm thiểu tác động từ dịch COVID-19 đối với các nền kinh tế đã đẩy giá vàng thỏi tăng thêm hơn 23% tính từ đầu năm cho đến nay.
Về các kim loại quý khác, giá bạch kim tăng 2,6% lên 904,97 USD/ounce; giá bạc tăng 6,4% lên 22,68 USD/ounce, sau khi có thời điểm lúc đàu phiên đạt mức cao nhất kể từ tháng 10/2013 là 23,03 USD/ounce.
Tính từ đầu tuần cho tới nay, giá bạc đã tăng hơn 17%. Một số nhà phân tích coi đây là sự khởi đầu của một đợt tăng giá bạc do môi trường lãi suất thấp, nhu cầu đầu tư tăng lên, hoạt động sản xuất bị gián đoạn và nhu cầu trong ngành công nghiệp phục hồi.
Công ty chuyên về dịch vụ tài chính và nghiên cứu thị trường Citi Research một thông báo gửi tới khách hàng cho biết, bạc cũng có thuộc tính 'trú ẩn an toàn' như vàng, nhưng kim loại này còn liên quan tới tăng trưởng sản xuất trên toàn cầu.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do đồng USD tăng mạnh thúc đẩy hoạt động bán ra chốt lời. Trên sàn London, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng giảm 0,8% xuống 6.483 USD/tấn, trong đầu phiên giao dịch đạt 6.601,5 USD/tấn, cao nhất gần 2 năm (6.633 USD/tấn) trong tuần trước đó.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng phiên thứ 2 liên tiếp, được thúc đẩy bởi kỳ vọng nhu cầu quặng sắt tăng khi mùa mưa khu vực phía đông Trung Quốc kết thúc. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Đại Liên tăng 1,1% lên 842 CNY/tấn, trong đầu phiên giao dịch tăng 3,6% lên 862 CNY (123,67 USD)/tấn.Giá quặng sắt 62% Fe giao ngay sang Trung Quốc tăng 1,5 USD lên 112,5 USD/tấn, công ty tư vấn SteelHome cho biết.
Trên sàn Thượng Hải giá thép cây tăng 1,3% lên 3.782 CNY/tấn, giá thép cuộn cán nóng tăng 1% lên 3.802 CNY/tấn, giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 9/2020 tăng 0,6% lên 13.580 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương Mỹ tăng do hoạt động mua vào của Trung Quốc. Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 4 US cent lên 3,34-3/4 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 2-3/4 US cent lên 8,99-1/4 USD/bushel, sau khi tăng lên mức cao (9,01-1/4 USD/bushel) trong đầu phiên giao dịch, trong khi giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2020 tăng 6-3/4 US cent lên 5,34-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn ICE tăng 0,19 US cent tương đương 1,6% lên 11,86 US cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 3,7 USD tương đương 1,0% lên 359 USD/tấn.
Giá cà phê robusta tăng lên mức cao nhất trong vòng gần 6 tháng, được thúc đẩy bởi cuộc đàm phán về suy thoái kinh tế khiến tiêu thụ chuyển sang cà phê hòa tan pha chế rẻ hơn. Đồng thời, giá cà phê Arabica tăng hơn 6% lên mức cao nhất 2 tháng, được thúc đẩy bởi đồng Brazil tăng mạnh.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn London tăng 40 USD tương đương 3,0% lên 1.357 USD/tấn – cao nhất kể từ cuối tháng 1/2020. Giá cà phê Arabica giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE tăng 6,6 US cent tương đương 6,5% lên 1,0835 USD/lb – cao nhất 2 tháng.
Giá hàng hóa thế giới sáng 23/7/2020
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
41,91
|
+0,01
|
+0,02%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
44,29
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
29.540,00
|
+430,00
|
+1,48%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
1,69
|
+0,01
|
+0,54%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
128,64
|
+0,36
|
+0,28%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
127,70
|
+0,63
|
+0,50%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
384,00
|
+4,75
|
+1,25%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
44.700,00
|
+450,00
|
+1,02%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.867,30
|
+2,20
|
+0,12%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.397,00
|
+123,00
|
+1,96%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
22,99
|
-0,15
|
-0,67%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
77,70
|
+7,50
|
+10,68%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
919,24
|
-5,24
|
-0,57%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.155,18
|
-1,58
|
-0,07%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
291,90
|
-0,55
|
-0,19%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.486,00
|
-48,50
|
-0,74%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.691,00
|
-5,50
|
-0,32%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.213,00
|
-32,00
|
-1,43%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
17.581,00
|
+16,00
|
+0,09%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
333,75
|
-1,00
|
-0,30%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
534,00
|
-0,50
|
-0,09%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
273,00
|
+0,75
|
+0,28%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,87
|
+0,07
|
+0,55%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
895,25
|
-0,25
|
-0,03%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
295,10
|
+0,90
|
+0,31%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,47
|
-0,05
|
-0,16%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
483,70
|
+0,10
|
+0,02%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.205,00
|
+29,00
|
+1,33%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
108,35
|
+6,60
|
+6,49%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,86
|
+0,19
|
+1,63%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
125,80
|
+2,95
|
+2,40%
|
Bông
|
US cent/lb
|
62,81
|
+0,27
|
+0,43%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
510,50
|
-2,70
|
-0,53%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
159,60
|
+0,60
|
+0,38%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,19
|
+0,08
|
+7,50%
|