Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau khi Mỹ công bố số liệu cho thấy dự trữ dầu hàng tuần giảm mạnh. Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 1,2% lên 43,75 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 0,6% lên 41,27 USD/thùng.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), trong tuần vừa qua, tồn trữ dầu của nước này đã giảm 10,6 triệu thùng xuống 526 triệu thùng, mức giảm lớn nhất kể từ tháng 12/2019. Nhập khẩu dầu ròng của Mỹ giảm 1 triệu thùng/ngày xuống 1,9 triệu thùng/ngày.
Tồn trữ dầu Mỹ giảm nhiều khả năng là do tác động của việc Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất dầu liên minh, còn gọi là OPEC+, cắt giảm sản lượng. Nhà phân tích cấp cao Phil Flynn, thuộc Price Futures Group, Chicago, cho biết, OPEC cắt giảm sản lượng và việc này được dự báo khiến dự trữ dầu tại Mỹ giảm hơn nữa.
Tuy nhiên, số ca lây nhiễm COVID-19 gia tăng trên toàn thế giới cản trở xu hướng tăng giá dầu bởi lo ngại nhu cầu sẽ bị ảnh hưởng. Dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp khi toàn cầu ghi nhận số ca lây nhiễm mới ở mức cao kỷ lục, đặc biệt tại Mỹ, là một trong những yếu tố chi phối thị trường dầu trong phiên này. Mỹ tiếp tục là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của dịch COVID-19, với 4.567.168 ca bệnh và 153.701 ca tử vong. Trong 24 giờ qua, Mỹ ghi nhận thêm 66.391 ca mắc và 1.410 ca tử vong.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết định giữ nguyên mức lãi suất siêu thấp cho tới khi nền kinh tế phục hồi.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.969,16 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 0,5% lên 1.953,4 USD/ounce.
Phát biểu tại buổi họp báo sau cuộc họp Chủ tịch Fed Powell cho biết sự gia tăng các ca nhiễm virus SARS-CoV-2 mới tại một số bang của Mỹ cùng với việc gia hạn các biện pháp nhằm ngăn chặn sự lây lan của đại dịch đã bắt đầu ảnh hưởng tới sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ. Các nhà hoạch định chính sách của Fed cũng khẳng định cam kết sẽ sử dụng “toàn bộ công cụ” để hỗ trợ nền kinh tế cho tới khi đạt được mục tiêu đề ra.
Chính phủ các nước tung ra những gói kích thích khổng lồ để hỗ trợ nền kinh tế do sự khủng hoảng đại dịch COVID-19 và môi trường lãi suất thấp đã giúp giá vàng tăng gần 30% từ đầu năm đến nay. Tổng thống Mỹ cho biết chính quyền của ông và quốc hội Mỹ vẫn chưa thống nhất về dự luật cứu trợ và cho biết ông không vội vàng đạt được một thỏa thuận.
Các nhà đầu tư tiếp tục đổ tiền vào quỹ tín thác vàng, với lượng vàng nắm giữ của quỹ SPRD ở mức cao nhất trong hơn 7 năm. Jeffrey Sica, chuyên gia cao cấp của trung tâm Circle Squared Alternative Investments nhận định giá vàng có thể lên tới ngưỡng kháng cự gần 2.000 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giữ gần mức cao nhất hai năm trong phiên vừa qua, do USD suy yếu bởi khả năng Cục dự trữ liên bang Mỹ tung thêm các gói kích thích, trong khi số liệu sản xuất tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới Trung Quốc đặt ra nghi ngờ về khả năng phục hồi kinh tế nhanh chóng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London gần như không đổi tại 6.472 USD/tấn. Kim loại này đã đạt mức cao nhất 25 tháng tại 6.633 USD trong ngày 13/7. Theo ngân hàng Commerzbank đồng USD suy yếu gần đây và điều này hoàn toàn hỗ trợ các hàng hóa gồm đồng.
Các nhà đầu tư đang tìm kiếm manh mối về ngân hàng trung ương Mỹ sẽ giải quyết với số ca nhiễm virus corona tăng vọt thế nào, nhưng các thị trường đã định giá chính sách tiền tệ nới lỏng hơn điều đó đang hỗ trợ kim loại.
Hoạt động sản xuất tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, Trung Quốc có thể tăng tháng thứ 5 liên tiếp trong tháng 7, nhưng tốc độ chậm hơn khi lũ lụt làm gián đoạn sản xuất và số ca nhiễm virus tăng trên khắp thế giới đe dọa làm suy yếu sự phục hồi dần trong nước.
Dự trữ đồng trên sàn giao dịch LME giảm 82% kể từ ngày 13/5 xuống 45.275 tấn.
Công ty khai thác Rio Tinto cho biết họ đã khai thác 266.000 tấn đồng trong nửa đầu năm 2020, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước. Họ dự kiến sản xuất 475.000 – 520.000 tấn trong năm nay.
Trong nhóm sắt thép, giá quặng sắt trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng phiên thứ hai liên tiếp do sản xuất mạnh tại các nhà máy khiến việc mua quặng sắt được tăng cường.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9 đóng cửa tăng 2,3% lên 842 CNY (120,25 USD)/tấn, sau khi đạt cao nhất trong phiên tại 844 CNY/tấn. Thép thanh giao tháng 10 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,7% lên 3.766 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 0,6% lên 3.788 CNY/tấn. Giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% xuất sang Trung Quốc không đổi so với phiên trước tại 109,5 USD/tấn trong ngày 28/7; thép không gỉ tại Thượng Hải giảm 0,04% xuống 13.760 CNY/tấn.
Tính từ ngày 24/7, công suất sử dụng tại các lò cao ở 247 nhà máy Trung Quốc tăng lên 93,08% từ 92,96% tuần trước đó, theo công ty tư vấn Mysteel.
Công ty khai mỏ Rio Tinto đã báo cáo lợi nhuận nửa đầu năm tốt hơn dự kiến, được thúc đẩy bởi giá quặng sắt mạnh và sản lượng tăng khi nhu cầu quặng sắt của Trung Quốc phục hồi.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 10 thay đổi ít tại 12,01 US cent/lb sau khi đạt đỉnh 12,27 US cent (cao nhất kể từ ngày 8/7) trong phiên trước; đường trắng kỳ hạn tháng 10 đóng cửa tăng 2,1 USD hay 0,6% lên 365,00 USD/tấn. Các đại lý cho biết thị trường đang củng cố sau khi tăng mạnh vào đầu tuần này do tin tức có thêm nhu cầu mới.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 đóng cửa tăng 1,95 US cent hay 1,8% lên 1,116 USD/lb, giá đã đạt mức cao nhất kể từ cuối tháng 4; cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 chốt phiên tăng 8 USD hay 0,6% lên 1.344 USD/tấn, đạt mức cao nhất kể từ tháng 12/2019.
Cà phê arabica hưởng lợi từ đồng real của Brazil mạnh lên ngăn cản các nhà xuất khẩu bán cà phê bởi sẽ làm giảm lợi nhuận thực tế của họ và do lo ngại gia tăng rằng việc phong tỏa và giá thấp có thể tổn hại tới sản lượng của Trung Mỹ. Về robusta, Starbucks cho biết hoạt động kinh doanh đang phục hồi ổn định trên khắp thế giới do hầu hết các cửa hàng cà phê đã mở cửa lại sau khi báo cáo giảm 40% doanh số trong quý 2. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm nay dự kiến giảm 1,4% so với năm trước xuống 1,06 triệu tấn.
Đối với mặt hàng cao su, hợp đồng cao su chuẩn của Nhật Bản được chuyển từ sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) sang sàn giao dịch Osaka từ ngày 27/7.
Giá cao su trên sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng theo xu hướng tăng tại Thượng Hải, mặc dù JPY mạnh lên so với USD và lo lắng về sự hồi sinh của ca nhiễm Covid-19 tại Mỹ đã hạn chế đà tăng.
Hợp đồng cao su giao tháng 1/2020 trên sàn OSE lúc đóng cửa tăng 1,4 JPY hay 0,9% lên 162,8 JPY (1,55 USD)/kg. Cao su giao tháng 9 trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng 160 CNY lên 10.855 CNY (1.551 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 30/7/2020
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
41,24
|
-0,03
|
-0,07%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
43,70
|
-0,05
|
-0,11%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
29.100,00
|
+190,00
|
+0,66%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
1,85
|
+0,05
|
+3,00%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
124,15
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
125,59
|
+0,26
|
+0,21%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
377,00
|
-0,25
|
-0,07%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
44.670,00
|
+290,00
|
+0,65%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.982,70
|
+6,00
|
+0,30%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.641,00
|
+36,00
|
+0,55%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
24,37
|
+0,04
|
+0,18%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
80,50
|
-1,50
|
-1,83%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
931,87
|
-2,83
|
-0,30%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.152,79
|
-26,03
|
-1,19%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
292,55
|
+0,65
|
+0,22%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.474,00
|
-3,00
|
-0,05%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.725,00
|
+1,00
|
+0,06%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.297,00
|
+50,50
|
+2,25%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
17.930,00
|
-63,00
|
-0,35%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
327,00
|
+0,75
|
+0,23%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
532,75
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
272,50
|
-1,50
|
-0,55%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,35
|
-0,04
|
-0,31%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
885,75
|
+0,50
|
+0,06%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
295,20
|
-0,60
|
-0,20%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,18
|
+0,12
|
+0,40%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
490,20
|
-1,00
|
-0,20%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.341,00
|
+50,00
|
+2,18%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
111,60
|
+1,95
|
+1,78%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,01
|
0,00
|
0,00%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
122,05
|
+2,05
|
+1,71%
|
Bông
|
US cent/lb
|
61,75
|
+0,14
|
+0,23%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
585,00
|
+18,10
|
+3,19%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
164,70
|
+3,40
|
+2,11%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,11
|
-0,08
|
-6,72%
|