Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do số ca nhiễm COVID-19 tăng mạnh đã làm dấy lên lo ngại rằng nhu cầu dầu mỏ sẽ yếu đi.
Kết thúc phiên, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 9/2020 giảm 1,35 USD xuống còn 39,92 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent giao cùng kỳ hạn cũng giảm 81 US cent xuống 42,94 USD/thùng.
Giới đầu tư tiếp tục lo ngại về triển vọng nhu cầu năng lượng trong bối cảnh số ca nhiễm COVID-19 ở Mỹ tăng vọt. Tâm lý thị trường cũng bị ảnh hưởng nặng nề sau khi số liệu cho thấy Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ sụt giảm kỷ lục. Bộ Thương mại Mỹ công bố ngày 30/7 cho biết, nền kinh tế lớn nhất thế giới đã giảm tới 32,9% trong quý II vừa qua, đánh dấu mức giảm mạnh nhất kể từ năm 1947. Số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần tăng, một dấu hiệu cho thấy sự bùng phát bệnh dịch ngày càng nghiêm trọng ở Mỹ.
Số liệu cho thấy Đức, nền kinh tế lớn nhất Châu Âu đã giảm kỷ lục 10,1% trong quý 2.
Mối đe dọa tiềm tàng với sự phục hồi nhu cầu dầu do tổ chúc OPEC và các đồng minh gọi là OPEC+ đã thiết lập tăng sản lượng trong tháng 8, bổ sung thêm 1,5 triệu thùng/ngày vào nguồn cung toàn cầu.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm nhẹ giữa bối cảnh giới đầu tư bán ra chốt lời sau 9 phiên tăng giá liên tiếp của kim loại quý này. Giá vàng - thường hưởng lợi khi lãi suất thấp - đã tăng hơn 28% kể từ đầu năm 2020 đến nay nhờ nhu cầu đầu tư tăng mạnh.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,9% xuống còn 1.952,30 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8/2020 giảm 0,6% xuống còn 1.942,30 USD/ounce.
Chiến lược gia về hàng hóa Daniel Ghali của TD Securities nhận định, các nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân đang tăng cường bán vàng để chốt lời.
Trước đó, ngày 28/7, giá vàng đã tăng lên mức cao kỷ lục 1.980,57 USD/ ounce, sau khi Cục Dự trữ Liên bang (Fed) quyết định giữ nguyên lãi suất trong khi cam kết sẽ sử dụng mọi biện pháp cần thiết để hỗ trợ nền kinh tế Mỹ phục hồi sau giai đoạn suy thoái do dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19.
Theo nhà phân tích kỳ cựu Jim Wyckoff của Kitco Metals, thị trường vàng sẽ trải qua một đợt điều chỉnh giá trong ngắn hạn, song về trung hạn và dài hạn thì giá kim loại quý này vẫn có xu hướng đi lên.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đề cập đến việc lùi thời gian tổ chức cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ dự kiến diễn ra vào tháng 11/2020 đã dẫn tới tình trạng bán ra mạnh trên thị trường chứng khoán Mỹ và làm giảm lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ.
Theo ông Phillip Streible, trưởng chiến lược gia thị trường của Blue Line Futures ở Chicago, các nhà đầu tư đang rất quan ngại trước các thông tin trên và tìm cách rút vốn khỏi thị trường chứng khoán của Mỹ, từ đó tác động tới giá vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 4,9% xuống còn 23,22 USD/ounce, giá bạch kim để mất 3,1% xuống 895,20 USD/ounce, trong khi giá palladium lùi 4,4% xuống 2.061,96 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm trong phiên vừa qua do niềm tin của nhà đầu tư bị ảnh hưởng bởi số ca nhiễm virus tăng vọt và thêm bằng chứng về tác động của đại dịch tới nền kinh tế.
Đồng trên sàn giao dịch kim loại London đã giảm 0,5% xuống 6.445 USD/tấn. Giá đã tăng vọt hơn 50% kể từ mức thấp hồi tháng 3 lên đỉnh 2 năm tại 6.633 USD/tấn vào ngày 13/7, một phần do lo lắng về nguồn cung từ nhà sản xuất hàng đầu Chile. Trong ngắn hạn giá đồng có thể giảm nhẹ xuống 6.250 USD/tấn.
Giá đồng kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch Thượng Hải đạt mức cao nhất trong hơn 2 năm, đóng cửa tăng 1,8% lên 14.720 CNY/tấn, do sự phục hồi tốt hơn dự kiến tại nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc.
Giá quặng sắt và thép tại Trung Quốc đóng cửa phiên tăng do Bắc Kinh có mục tiêu hoàn thành việc phát hành trái phiếu địa phương vào cuối tháng 10 được xem như một kích thích cho các dự án cơ sở hạ tầng. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng phiên thứ 3 liên tiếp, tăng 1% lên 840 CNY (119,91 USD)/tấn. Thép thanh giao tháng 10 tăng 0,5% lên 3.767 CNY/tấn trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải. Thép cuộn cán nóng đóng cửa tăng 1,1% lên 3.819 CNY/tấn. Đây là tuần thứ 6 liên tiếp giá tăng sau khi Trung Quốc bước vào mùa mưa, mặc dù tồn kho tăng ở tốc độ chậm lại so với tốc độ tăng 1,7% trong tuần trước.
Trung Quốc đã phát hành hạn ngạch trái phiếu đặc biệt hàng năm của chính quyền địa phương ở mức 3,75 nghìn tỷ CNY trong năm nay. Bộ tài chính đã cấp cho chính quyền địa phương quyền tự chủ để sử dụng số tiền thu được, nếu họ thiếu các dự án cơ sở hạ tầng.
Tồn kho các sản phẩm thép chính tại nhà máy và của các thương nhân tăng 1,3% lên 22,3 triệu tấn trong ngày 30/7, theo số liệu công ty tư vấn Mysteel.
Trên thị trường nông sản, gía đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,1 US cent lên 12,11 US cent/lb, sau khi đạt đỉnh 12,27 US cent trong ngày 28/7, cao nhất kể từ ngày 8/7. Các đại lý cho biết đường được lợi từ lo lắng về sản lượng đang giảm tại Thái Lan, nhà xuất khẩu đường lớn thứ 2 thế giới. Đường trắng kỳ hạn tháng 10 tăng 3,2 USD lên 368,2 USD/tấn.
Doanh số bán đường tại Châu Âu dần trở lại mức dự báo trước khi bùng phát Covid-19.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 tăng 3,75 US cent lên 1.1535 USD/lb, đạt cao nhất kể từ giữa tháng 4; cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 đóng cửa biến đổi nhẹ tại 1.340 USD/tấn sau khi đạt mức cao nhất 7,5 tháng tại 1.381 USD trong đầu phiên giao dịch. Các đại lý cho biết nhu cầu robusta là mạnh do loại cà phê này được sử dụng rộng rãi để sản xuất cà phê hòa tan.
Arabia được hưởng lợi từ đồng real của Brazil mạnh lên và lo ngại rằng việc phong tỏa và giá thấp có thể gây thiệt hại cho sản lượng của Trung Mỹ.
Ở Châu Á, giá cà phê tại Việt Nam tăng trong tuần này do nguồn cung hạn hẹp khi cuối vụ và do yêu cầu giãn cách xã hội của chính phủ tại một số nơi của khu vực trồng cà phê. Nông dân tại Tây Nguyên đã bán cà phê ở giá 33.000 – 33.200 đồng (1,41 – 1,43 USD)/kg, tăng nhẹ từ 31.800 – 32.000 đồng một tuần trước. Các thương nhân tại Việt Nam đã chào bán cà phê robusta loại 2 (5% hạt đen và vỡ) ở mức cộng 130 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9 tại London, giảm từ 160 USD trong tuần trước.
Việt Nam đang tìm cách hạn chế sự bùng phát virus corona mới, với các ca nhiễm mới được báo cáo tại 6 thành phố và tình thành trong tuần qua.
Tại Indonesia, cà phê robusta Sumatran được chào ở mức cộng 240 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9, giảm từ mức cộng 250 USD một tuần trước do nguồn cung mới đang tăng từ vụ thu hoạch.
Giá cao su của Nhật Bản tăng vượt mức cao nhất trong 7 tuần do sự gia tăng trong giá Thượng Hải và đồng JPY giảm giá so với USD, bất chấp lo ngại về số ca nhiễm virus tăng vọt trên thế giới.
Hợp đồng cao su trên sàn giao dịch Osaka (OSE) đóng cửa tăng 3,4 JPY hay 2,1% lên 164,8 JPY (1,57 USD)/kg. Trong đầu phiên giá đã đạt mức cao nhất kể từ ngày 8/6 tại 166,1 JPY.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 140 JPY lên 10.885 CNY (1.554 USD)/tấn. Trước đó trong phiên giá đã đạt 11.145 JPY, cao nhất kể từ ngày 5/3.

Giá hàng hóa thế giới sáng 31/7/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,29

+0,37

+0,93%

Dầu Brent

USD/thùng

43,30

+0,36

+0,84%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.680,00

-520,00

-1,78%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,84

+0,01

+0,71%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

123,04

+1,00

+0,82%

Dầu đốt

US cent/gallon

121,62

+0,43

+0,35%

Dầu khí

USD/tấn

364,75

+4,50

+1,25%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.900,00

-680,00

-1,53%

Vàng New York

USD/ounce

1.976,90

+10,10

+0,51%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.595,00

-41,00

-0,62%

Bạc New York

USD/ounce

23,53

+0,17

+0,72%

Bạc TOCOM

JPY/g

78,20

-2,10

-2,62%

Bạch kim

USD/ounce

905,30

-2,70

-0,30%

Palađi

USD/ounce

2.072,43

-15,86

-0,76%

Đồng New York

US cent/lb

292,20

+0,80

+0,27%

Đồng LME

USD/tấn

6.430,50

-43,50

-0,67%

Nhôm LME

USD/tấn

1.720,00

-5,00

-0,29%

Kẽm LME

USD/tấn

2.286,50

-10,50

-0,46%

Thiếc LME

USD/tấn

17.805,00

-125,00

-0,70%

Ngô

US cent/bushel

327,75

+1,00

+0,31%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

531,00

+1,50

+0,28%

Lúa mạch

US cent/bushel

271,25

-0,25

-0,09%

Gạo thô

USD/cwt

11,53

-0,01

-0,09%

Đậu tương

US cent/bushel

892,00

+3,75

+0,42%

Khô đậu tương

USD/tấn

299,10

+1,10

+0,37%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,32

+0,16

+0,53%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

490,10

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.344,00

+3,00

+0,13%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

115,35

+3,75

+3,36%

Đường thô

US cent/lb

12,11

+0,10

+0,83%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

120,70

-1,35

-1,11%

Bông

US cent/lb

62,35

-0,83

-1,31%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

580,40

-4,60

-0,79%

Cao su TOCOM

JPY/kg

160,20

-2,90

-1,78%

Ethanol CME

USD/gallon

1,11

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg